Về phía mạngtruy nhập vô tuyến (RAN), những pháttriển phổ biến nhất được tập trung xung quanh các công nghệ tập hợp sóng mang, antentiên tiến như tạo búp-3D, hệ thống anten tích cực, MIMO số lượng lớn và MIMOmạng hứa hẹn cho phép sử dụng hiệu quả phổ tần tốt hơn. Ở châu Á, đã có rấtnhiều công trình nghiên cứu về hai chế độ song công TDD-FDD và TDD động để tăngcường tính linh hoạt phổ tần.
Ngoài ra còn có rất nhiều hoạt động đểphát triển các dạng sóng, điều chế và mã hóa, và các công nghệ đa truy nhập tiêntiến nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phổ tần, như OFDM lọc (FOFDM), điều chế lọcđa sóng mang (FBMC), đa truy nhập phân chia theo mẫu (PDMA), đa truy nhập theomã (SCMA), đa truy nhập xen kẽ (IDMA) và trải phổ mật độ thấp (LDS).
Những phát triển công nghệ RAN khác baogồm Tx/Rx đồng thời trên cùng một tần số với cơ chế tự triệt nhiễu, truyềndẫn backhaul linh hoạt và cấu hình truy cập vô tuyến động, điều chế bậc cao chocác cell nhỏ, quản lý chung cho nhiều công nghệ truy cập vô tuyến (multi-RATs)và phân bổ tài nguyên đường lên/ đường xuống linh hoạt.
Về phía mạng, mạng xác định bằng phần mềm SDN và ảo hóachức năng mạng NFV đã được triển khai, và dự kiến sẽ đóng một vai trò quantrọng trong việc giúp khai thác hiệu quả mạng lưới và tạo cho các mạng di độngsự linh hoạt và khả năng cần thiết để hỗ trợ rất nhiều các ứng dụng, dịch vụ vàkết nối.
RAN đám mây (C-RAN) sẽ đóng một vai tròquan trọng để đảm bảo các tài nguyên xử lý băng gốc và lớp cao hơn có thể đượcquản lý và phân bổ tự động theo yêu cầu. Cơ cấu phối hợp liên cell nhưcông nghệ mạng tự tổ chức (SON) sẽ cho phép các nhà khai thác nâng cao hiệu quả,giảm chi phí vận hành của mạng lưới đa công nghệ truy nhập (RAT) và nhiều lớp.
Tiếp đó, có những công nghệ được thiết kếđể nâng cao QoS dịch vụ di động băng rộng, chẳng hạn như cell nhỏ, Giấy phép hỗtrợ truy cập (LAA), Dịch cụ phát sóng và quảng bá đa phương tiện nâng cao(eMBMS), truyền dẫn luồng thích nghi động HTTP (DASH) để đáp ứng nhiều nội dungvideo streaming hơn trên cùng một cơ sở hạ tầng, trong bối cảnh ứng dụng nhậnthức cho các dịch vụ được cá nhân hoá nhiều hơn, và các kỹ thuật cự lý gần chophép liên lạc trực tiếp thiết bị đến thiết bị (D2D).
Vấn đề phổ tần
Một trong những vấn đề nóng nhất xungquanh 5G chắc chắn là phổ tần số: không chỉ về số lượng cần thiết mà còn là phổtần nào. Theo một báo cáo của ITU (ITU-R M.2376), "sử dụng các băng tần từ 6 GHz đến 100 GHz là khảthi cho các kịch bản triển khai IMTđược nghiên cứu, và có thể được xem xét chophát triển của IMT tới năm 2020 và xa hơn." Và thực thế, rất nhiềunghiên cứu hiện nay đang tìm cách sử dụng các dải sóng tần số cao hơn milimetlàm tài nguyên phổ tần cho 5G.
Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các tần số cósẵn cho các nhà khai thác di động chỉ ở phạm vi dưới 6 GHz. Sau hội nghịWRC-15 vào tháng mười một năm ngoái, Hiệp hội GSM đã có thể để bảo đảm các băngtần hài hòa cho 700 MHz (cụ thể, 694-790 MHz), 200 MHz thấp hơnbăng tần C(3,4-3,6 GHz) và L-band (1427- 1518 MHz). Nhưng việc phân bổ tần số mới trên 6GHz vẫn chưa được bàn đến, và không có khả năng được xét tới ít nhất đến Hộinghị WRC-19, nơi các băng sóng milimet trên 24 GHz sẽ được xem xét.
Tổng hợp theo http://www.telecomasia.net