Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng Kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia

03/11/2015 21:00
Theo dõi ICTVietnam trên

Gần đây, trong Công văn số 313/VPCP 7/8/2014 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ "Sớm hoàn thành kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia". Bài báo này sẽ nêu lên một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong quá trình xây dựng Kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia.

Kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia là vấn đề đã được đề cập từ năm 2007 trong Nghị định 64/2007/ NĐ-CP của Chính phủ về Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Gần đây, trong Công văn số 313/VPCP 7/8/2014 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ "Sớm hoàn thành kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia". Bài báo này sẽ nêu lên một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong quá trình xây dựng Kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển chính phủ điện tử (CPĐT) có hệ thống và hiệu quả, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng và ban hành những hướng dẫn liên quan đến kiến trúc. Một trong những tiếp cận được nhiều quốc gia lựa chọn để xây dựng kiến trúc cho CPĐT là áp dụng Kiến trúc tổng thể (Enterprise Architecture - EA), từ đó hình thành nên Kiến trúc tổng thể chính phủ (Government Enterprise Architecture - GEA) hoặc Kiến trúc tổng thể quốc gia (National Enterprise Architecture - NEA) hay có thể là Kiến trúc tổng thể liên bang (Federal Enterprise Architecture - FEA. Tại Việt Nam, Chính phủ đã xác định phải xây dựng Kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia, tuy nhiên, mới chỉ có một số hướng dẫn liên quan đến mô hình/kế hoạch ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước.

KHÁI NIỆM KIẾN TRÚC HỆ THỐNG THÔNG TIN QUỐC GIA

Theo nghiên cứu của Bộ Tài chính Phần Lan năm 2007 đối với EA của 15 nước trên thế giới [3], EA mô tả các hệ thống thông tin, những quy trình, con người thuộc các đơn vị trong tổ chức một cách khái quát. Bằng việc xác định, cấu trúc, phân loại các thành phần, EA có thể tăng khả năng tái sử dụng, giảm sự trùng lặp, loại bỏ các dự án chồng chéo và nhờ đó giảm được chi phí. EA mô tả và giải thích các mối quan hệ giữa các dự án và giúp cả việc tập hợp hệ thống và quản lý thay đổi. Các mô hình kiến trúc, các nguyên tắc và những tiêu chuẩn hình thành nội dung của EA. Căn cứ theo sự phát triển các chương trình EA của các quốc gia, Thụy Điển, Phần Lan và Niu-Di lân được xếp vào nhóm có mức độ phát triển thấp, nghĩa là mới nhận thức được khả năng và tầm quan trọng của việc phát triển EA. Nhóm phát triển trung bình có Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Ca-na-đa, Thụy Sĩ, Đan Mạch và E-xtô-ni-a. Hoa Kỳ được xem là quốc gia có chương trình EA ở mức phát triển cao. Do Hoa Kỳ là quốc gia phát triển EA ở trình độ cao và là quốc gia tiên phong trong việc phát triển EA, bài báo sẽ tập trung nghiên cứu trường hợp này.

Tại Hoa Kỳ, năm 1996, Luật Clinger - Cohen được ban hành trên cơ sở hợp nhất các Luật Cải cách quản lý CNTT và Luật Cải cách thu thập liên bang (Federal Acquisition Reform Act - FARA) với mục đích nâng cao phương thức các cơ quan liên bang thu thập, sử dụng và cung cấp CNTT. Luật mới này định hướng sự phát triển và duy trì các Kiến trúc CNTT (ITA) của các cơ quan liên bang để tối đa lợi ích của CNTT trong chính phủ, trong đó Kiến trúc CNTT của một cơ quan được định nghĩa là: "Một khung tích hợp để phát triển hay duy trì CNTT hiện có và thu thập CNTT mới để đạt được các mục tiêu chiến lược và mục tiêu quản lý tài nguyên thông tin của cơ quan" [8]. Điểm chú ý ở đây là xác lập vị trí Giám đốc thông tin (CIO) và một trong những trách nhiệm của CIO là phát triển, duy trì và thúc đẩy Kiến trúc CNTT cho mỗi cơ quan liên bang. Các cơ quan liên bang tại Hoa Kỳ bao gồm các cơ quan thuộc cả ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp của chính quyền trung ương, không bao gồm chính quyền địa phương của các bang. Sau đó, vào năm 2002, Luật CPĐT mới xác định EA là "một tập hợp tài sản thông tin chiến lược để xác định nhiệm vụ; là thông tin cần thiết để thực hiện nhiệm vụ; là các công nghệ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ và những quy trình chuyển đổi để thực hiện những công nghệ mới để đáp ứng với những thay đổi. Kiến trúc tổng thể bao gồm một kiến trúc hiện tại, một kiến trúc tương lai và một kế hoạch chuyển đổi." [9]

Trong quá trình thực hiện Luật Clinger - Cohen và Luật CPĐT, Văn phòng Quản lý và Ngân sách của Văn phòng Tổng thống (OMB) cũng yêu cầu các cơ quan nếu sử dụng ngân sách của chính phủ khi đầu tư vào các hệ thống thông tin lớn nên thống nhất với Kiến trúc CNTT của các cơ quan [5]. Đến năm 1999, Hội đồng CIO Hoa Kỳ (CIOC) ban hành Khung Kiến trúc tổng thể liên bang phiên bản 1.1 (FEAF v1.1) hướng dẫn các cơ quan liên bang sử dụng để phát triển Kiến trúc CNTT cho cơ quan mình theo Luật Clinger - Cohen. Sau này, việc xây dựng Kiến trúc CNTT của các cơ quan được xem như là xây dựng EA trong các cơ quan đó. Sau khi các cơ quan xây dựng thành công EA của mỗi cơ quan thì tiến đến xây dựng EA liên bang tức là FEA. Theo FEAF v1.1, có 8 thành phần cần thiết để phát triển và duy trì FEA như Hình 1 dưới đây:

-Định hướng kiến trúc (Architecture Driver): Biểu diễn hai mặt của kiến trúc là nghiệp vụ và thiết kế. Định hướng nghiệp vụ có thể là chính sách, những sáng kiến cải cách mới, tăng cường ngân sách cho một số lĩnh vực trọng điểm. Định hướng thiết kế bao gồm dữ liệu, ứng dụng và công nghệ.

-Định hướng chiến lược (Strategic Direction): Hướng dẫn phát triển kiến trúc trong tương lai bao gồm tầm nhìn, các nguyên tắc, mục đích và mục tiêu.

-Kiến trúc hiện tại (Current Architecture): Xác định kiến trúc tổng thể hiện tại và bao gồm hai phần: nghiệp vụ và kiến trúc thiết kế hiện tại.

-Kiến trúc mục tiêu (Target Architecture): Xác định kiến trúc tổng thể cần xây dựng và bao gồm hai phần: nghiệp vụ và kiến trúc thiết kế mục tiêu.

-Các quá trình chuyển đổi (Transitional Processes): Hỗ trợ chuyển đổi từ kiến trúc hiện tại sang kiến trúc mục tiêu. Quá trình chuyển đổi bao gồm việc lập kế hoạch đầu tư CNTT, lập kế hoạch chuyển đổi, quản lý cấu hình và kiểm soát thay đổi.

-Các phân đoạn kiến trúc (Architectural Segments): Tập trung vào lĩnh vực nghiệp vụ đa ngành lớn, ví dụ như hệ thống hành chính chung; các lĩnh vực trọng điểm như thương mại và tài trợ. Mỗi lĩnh vực đại diện cho một phần (đoạn) của kiến trúc tổng thể. Một phân đoạn được coi là một cơ quan trong tổng số các cơ quan liên bang.

-Các mô hình kiến trúc (Architectural Models): Xác định mô hình nghiệp vụ và thiết kế hình thành các phân đoạn về mô tả các cơ quan. Trong đó:

Kiến trúc nghiệp vụ: xác định các quy trình nghiệp vụ liên bang, các luồng thông tin liên bang và các thông tin cần thiết để thực hiện các chức năng nghiệp vụ.

Kiến trúc dữ liệu: xác định những dữ liệu được đặt ra để hỗ trợ nghiệp vụ (ví dụ, các mô hình dữ liệu).

Kiến trúc ứng dụng: Xác định các ứng dụng lớn cần thiết để quản lý dữ liệu và hỗ trợ các chức năng nghiệp vụ.

Kiến trúc công nghệ: Mô tả vật lý của môi trường công nghệ, hệ thống phần cứng và phần mềm thực tế.

Tiêu chuẩn: Bao gồm các tiêu chuẩn (một số trong đó có thể là bắt buộc), hướng dẫn và thực hành tốt nhất.

Quy trình phát triển EA được xác định là một chu kỳ bao gồm các bước: (1) Xin chủ trương, (2) Thành lập cơ cấu tổ chức quản lý, (3) Xác định quy trình phát triển và tiếp cận xây dựng kiến trúc, (4) Xác định kiến trúc hiện tại, (5) Xác định kiến trúc mục tiêu, (6) Xây dựng kế hoạch chuyển đổi, (7) Sử dụng kiến trúc và (8) Duy trì kiến trúc (Hình 2).

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng EA của các cơ quan liên bang, để làm rõ những hướng dẫn xây dựng EA năm 1999 (FEAF v1.1) và để phù hợp sự phát triển của công nghệ và thay đổi nghiệp vụ, OMB và CIOC tiếp tục cập nhật, ban hành những tài liệu hỗ trợ khác. Bên cạnh đó, OMB còn ban hành những hướng dẫn liên quan đến việc quản lý đầu tư CNTT cho các cơ quan liên bang trong quá trình đầu tư cho CNTT trong cơ quan mình. Bắt đầu từ năm 2002, Văn phòng Kiểm toán Chính phủ (GAO) có trách nhiệm đánh giá sự phát triển EA của các cơ quan liên bang khi sử dụng ngân sách quốc gia [4].

Đến thời điểm hiện tại, các cơ quan liên bang của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục xây dựng EA của các cơ quan và chưa thấy FEA của Hoa Kỳ. Qua quá trình phát triển EA của Hoa Kỳ, có thể thấy rằng việc xây dựng và duy trì EA là:

-Một quá trình liên tục có bổ sung, cập nhật, không thể xây dựng và hoàn thành trong một giai đoạn.

-Được đầu tư đủ ngân sách cho việc xây dựng và duy trì EA.

-Chỉ hướng dẫn xây dựng EA cho các cơ quan liên bang, không hướng dẫn chính quyền địa phương của các bang.

Hiện trạng phát triển kiến trúc tại Việt Nam

Theo đánh giá của [3], trong quá trình phát triển phát triển EA của các quốc gia cần thiết phải xác định, xây dựng các thành phần, yếu tố:

-Chính sách, các bên liên quan và cơ cấu tổ chức để xác định môi trường, định hướng và mục tiêu phát triển kiến trúc.

-Mô hình điều hành để cập nhật kiến trúc.

-Khung kiến trúc và phương pháp luận để xác định EA quốc gia là gì, sử dụng khung kiến trúc nào và quy trình phát triển kiến trúc ra sao.

-Các nguyên tắc kiến trúc và tiêu chuẩn để thực hiện kiến trúc và quản lý thay đổi.

-Thực hiện phát triển EA quốc gia.

-Xây dựng công cụ và tiêu chí để đánh giá công việc phát triển EA quốc gia.

Hiện nay, Việt Nam mới triển khai một số công việc có thể liên quan đến mô hình để định hướng việc ứng dụng CNTT, hướng tới phát triển CPĐT:

-Quyết định số 1605/2010/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015. Đây có thể xem như một kế hoạch/mô hình tổng thể khái quát về ứng dụng CNTT, đã xác định được cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các hệ thống thông tin và các cơ sở dữ liệu lớn để ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước và phục vụ người dân và doanh nghiệp.

-Công văn số 270/BTTTT-ƯDCNTT ngày 06/06/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc hướng dẫn Mô hình thành phần chính quyền điện tử cấp tỉnh. Công văn này đã đưa ra một mô hình hướng dẫn các tỉnh/thành phố tự xây dựng một mô hình ứng dụng CNTT phù hợp với địa phương. Các thành phần bao gồm: Người sử dụng; Kênh truy cập; Giao diện với người sử dụng; Các dịch vụ công trực tuyến, các ứng dụng nghiệp vụ; Lớp tích hợp; Các dịch vụ dùng chung; Cơ sở dữ liệu; Cơ sở hạ tầng; Phần quản lý, các nội dung hỗ trợ tất cả các thành phần trên.

-Thành lập Hội đồng Giám đốc CNTT ở Trung ương và địa phương với nhiệm vụ xây dựng các chủ trương, chính sách quản lý ứng dụng CNTT; xây dựng các văn bản hướng dẫn về xây dựng hệ thống CNTT, quản lý, chia sẻ tài nguyên, dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước của các địa phương và kết nối với các cơ quan nhà nước cấp Trung ương nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT và phát triển CPĐT.

-Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành một số văn bản hướng dẫn về chức năng, tính năng kỹ thuật của một số hệ thống thông tin; hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn về ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước; hướng dẫn xây dựng kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động cơ quan nhà nước... Một số Bộ, ngành và địa phương cũng đã và đang xây dựng một mô hình/kiến trúc ứng dụng CTTT chung cho toàn bộ ngành hoặc địa phương theo hướng EA. Điển hình là Bộ Tài chính đã nghiên cứu, xây dựng một kiến trúc cho toàn bộ ngành Tài chính. Mới đây, Đà Nẵng đã công bố xây dựng Hệ thống thông tin chính quyền điện tử của thành phố.

Trong khi đó, cơ sở pháp lý về kiến trúc lần đầu tiên được xác định trong Nghị định số 64/2007/ NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó xác định phải xây dựng kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia nhưng chỉ đề cập đến các nội dung về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hiện nay cũng chưa xác định khái niệm, mục tiêu, đối tượng áp dụng, kế hoạch phát triển, phương pháp tiếp cận, mô hình điều hành... Điều này có thể dẫn đến có nhiều nhận thức và mong muốn khác nhau về kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia.

Nếu áp dụng phương pháp luận theo EA để xây dựng kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia và hiểu kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia sẽ là một kiến trúc có tính chất chung được áp dụng cho tất cả các cơ quan nhà nước tại Việt Nam thì cần phải mô tả như thế nào đối với mô hình hành chính bốn cấp từ Trung ương đến xã/phường và sự phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền cấp tỉnh tại Việt Nam trong khi mỗi một cấp hành chính có những nhu cầu và yêu cầu khác nhau nhưng lại có quan hệ tác động qua lại. Thực tế kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới chỉ hướng dẫn xây dựng kiến trúc cho các cơ quan trung ương, không áp dụng cho các bang.

KẾT LUẬN

Để phát triển kiến trúc chuẩn hệ thống thông tin quốc gia và triển khai thành công, đầu tiên cần phải nghiên cứu và nhận thức đúng đắn, đầy đủ về kiến trúc, sau đó xác định các yếu tố thành công và xây dựng kế hoạch phù hợp với Việt Nam. Một điều quan trọng cần lưu ý là việc phát triển kiến trúc là một quá trình liên tục, lâu dài và phải gắn liền với việc quản lý đầu tư CNTT.

Tài liệu tham khảo

[1].Chief Information Officer Council (1999), Federal Enterprise Architecture Framework v1.1.
[2].Chief Information Officer Council (2001), A Practical Guide to Federal Enterprise Architecture.
[3].Finland Ministry of Finance (2007), Overview of Enterprise Architecture work in 15 countres.
[4].Government Accountability Office (2002), OMB Leadership Critical to Making Needed Enterprise Architecture and E-govemment Progress.
[5].Office of Management and Budget (1996), M-97-02 Funding information Systems Investments.
[6].Office of Management and Budget (2012), Common Approach to Federal EA.
[7].Peter Engelund Christiansen and John G0tze (2007), Trends in Governmental Enterprise Architecture Reviewing National EA Programs.
[8].United States Congress (1996), Clinger - Cohen Act.
[9].United States Congress (2002), E-Government Act.

Trần Việt Cường

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
  • AI tràn ngập, ngành xuất bản cần làm gì?
    Trong bối cảnh công nghệ đang chi phối mạnh mẽ mọi mặt của đời sống, ngành xuất bản cũng đang từng bước chuyển mình với những ứng dụng tiên tiến hơn để mở ra những cách làm hoàn toàn mới, nhanh hơn, thông minh hơn và hiệu quả hơn nữa, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu về cân bằng giữa việc áp dụng AI và sáng tạo con người.
  • Nhiều tranh cãi xung quanh việc Meta thắng kiện bản quyền AI
    Một thẩm phán liên bang Mỹ vừa đưa ra phán quyết thắng kiện cho Meta Platforms trong vụ việc một nhóm tác giả đã kiện công ty này sử dụng sách của họ mà không được phép để đào tạo hệ thống AI.
  • Các xu hướng AI và chiến lược phát triển
    Theo ông Thiều Phương Nam, Tổng Giám đốc Qualcomm Việt Nam, Lào và Campuchia, chúng ta đang sống trong thời kỳ bùng nổ dữ liệu, AI và tự động hoá nơi mà năng lực hạ tầng không chỉ là đòn bẩy kỹ thuật mà đó còn là nền tảng để giúp các doanh nghiệp chuyển đổi số, phát triển và bứt phá.
  • Tập đoàn, công ty CNTT, Bưu điện hỗ trợ triển khai TTHC hai cấp
    Triển khai Cổng Dịch vụ công quốc gia trở thành điểm "một cửa số" tập trung, duy nhất từ 18 giờ ngày 27/6/2025, làm cơ sở để hoàn thiện và thực hiện thông suốt, hiệu quả, không bị gián đoạn từ ngày 1/7/2025.
  • SparkKitty: Phần mềm gián điệp có thể tấn công vào người dùng mạng tại Việt Nam
    SparkKitty, một phần mềm gián điệp mới xuất hiện có khả năng tấn công điện thoại thông minh sử dụng hệ điều hành iOS và Android.
Đừng bỏ lỡ
Một số vấn đề về nghiên cứu xây dựng Kiến trúc hệ thống thông tin quốc gia
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO