Trong thập kỷ qua, các công nghệ kỹ thuật số đã có tác động biến đổi sâu sắc đối với các nền kinh tế và xã hội của các nước ASEAN. Ví dụ, Grey Wolf, một công ty khởi nghiệp ở Myanmar đã kết hợp các kỹ thuật chạm khắc gỗ truyền thống với công nghệ 3Dcarving điều khiển bằng máy tính để tạo ra vỏ điện thoại bằng gỗ. Ở Malaysia, một phụ nữ trẻ có niềm đam mê làm bánh đã tạo ra một thương hiệu trực tuyến đang phát triển có tên KekMolek.
Tại Việt Nam, Indonesia và Philippines, một số doanh nhân trẻ đang thay đổi cuộc sống của nông dân và ngư dân địa phương với Internet kết nối vạn vật (IoT) và các công nghệ dựa trên đám mây khác.
Đây chỉ là một số câu chuyện thành công về số hóa ASEAN được Ủy ban điều phối ASEAN về doanh nghiệp vi mô, nhỏ và vừa nhấn mạnh trong một ấn phẩm phát hành năm 2018, tại Hội nghị thượng đỉnh Kinh doanh và Đầu tư ASEAN (ABIS) tại Singapore.
Hàng triệu người bị tước quyền bởi sự khác biệt về kỹ thuật số ngày càng tăng
Nhưng tốc độ phát triển này đi kèm với những thách thức. Trong một khu vực có hơn 600 triệu người, gia tăng kết nối không nhất thiết phải mang lại quyền truy cập như nhau cho tất cả mọi người. Phần quan trọng này của nền kinh tế ASEAN vẫn không nhận được lợi ích từ ngành công nghệ hiện đại.
Sự khác biệt về kỹ thuật số giữa các nền kinh tế mới nổi của Đông Nam Á và các quốc gia phát triển hơn là rất rõ ràng. Khoảng cách rộng nhất là tại các quốc gia như Campuchia, Lào và Myanmar khi mà những nước này có tỉ lệ dưới 50% dân số sử dụng internet. Ngược lại, các quốc gia như Singapore, Thái Lan và Malaysia thì tỉ lệ tốt hơn với khoảng 80%.
Nhưng kết nối, hay nói đúng hơn là thiếu cơ sở hạ tầng không phải là vấn đề duy nhất. Thiếu giáo dục và các kỹ năng trực tuyến có liên quan là một rào cản lớn đối với những người trong khu vực để truy cập vào cơ sở hạ tầng. Theo Báo cáo Findex của Ngân hàng Thế giới 2017, các yếu tố như thu nhập và tuổi tác cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc ức chế truy cập vào nền kinh tế kỹ thuật số. Các cá nhân từ nhóm thu nhập thấp và những người trên 55 tuổi ít có khả năng sở hữu điện thoại di động, có quyền truy cập internet và sử dụng nó để thanh toán kỹ thuật số. Những khác biệt về kỹ thuật số này chia rẽ toàn bộ các nhóm từ nền kinh tế khu vực.
Dân chủ kỹ thuật số đang là nhu cầu
Chỉ trong vài năm, các công nghệ kỹ thuật số đã thay đổi cách con người sống và tương tác. Trong nhiều xã hội phát triển, kết nối đã được coi là một nhu cầu cơ bản, giống như điện và nước.
Sự khác biệt trong nền kinh tế kỹ thuật số đã khai sinh ra khái niệm dân chủ kỹ thuật số. Dân chủ theo nghĩa xã hội - chính trị kêu gọi sự tham gia chính trị của mọi công dân. Một nguyên tắc như vậy cũng quan trọng không kém trong lĩnh vực kỹ thuật số, theo kết luận của một báo cáo EIU gần đây. Rama Sridhar, Giám đốc điều hành, đối tác kỹ thuật số và mới nổi và các luồng thanh toán mới, Mastercard Châu Á Thái Bình Dương cho biết, “Số hóa là sự tham gia tích cực của tất cả mọi người, đặc biệt là những người ở phía dưới cùng kim tự tháp”.
Kết nối giúp mang mọi người lại gần nhau hơn. Đối với các tầng lớp kinh tế thấp hơn, nó có thể tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ và phúc lợi của chính phủ. Người tiêu dùng trung lưu có quyền truy cập vào các sản phẩm và dịch vụ mới trong khi các doanh nghiệp tìm thấy thị trường mới để tăng trưởng.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) được nhắc tới tại ABIS đều được hưởng lợi từ việc tiếp cận thị trường kỹ thuật số. Nhưng theo Florian Hoppe của Bain & Company Singapore, họ chỉ là thiểu số trong khu vực. Chỉ 16% các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quyền truy cập vào nền kinh tế kỹ thuật số. Điều này đang thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường kỹ thuật số trong khu vực.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 50% GDP của khu vực và tạo việc làm cho 80% dân số làm việc. Nói một cách dễ hiểu hơn, đóng góp GDP từ nền kinh tế kỹ thuật số trong khu vực ASEAN chỉ là 7%. Tại Trung Quốc, nền kinh tế kỹ thuật số đóng góp 16% GDP. Ở Mỹ, nó chiếm 35%.
Tiềm năng tăng trưởng kinh tế thông qua nền dân chủ kỹ thuật số là rất lớn. “Nền dân chủ kỹ thuật số sẽ tạo điều kiện cho dòng chảy thương mại giữa các quốc gia trong khu vực”, Rama Sridhar nói, “và nó có khả năng tăng GDP của ASEAN lên 1 nghìn tỷ USD chỉ trong năm 2025”.
ASEAN đang triển khai các kế hoạch tổng thể đầy tham vọng
Những rào cản đối mặt với khu vực trên con đường hướng tới nền dân chủ kỹ thuật số và sự thịnh vượng gia tăng là rất đáng kể. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT) yếu là một vấn đề lớn, đặc biệt là ở các quốc gia kém phát triển trong khu vực. Thiếu nhận thức, giáo dục, kỹ năng trong dân chúng là một vấn đề khác. Thêm vào đó, hiện không có một khuôn khổ lập pháp kỹ thuật số chung nào cho khu vực.
Điểm cuối cùng đặc biệt quan trọng đối với Rama Sridhar. “Quy định phải nhằm mục đích hội tụ và làm rõ hành động tập thể trên các hệ sinh thái, nền tảng và quốc gia”. Một thị trường kỹ thuật số chung, giống như thị trường được chia sẻ bởi các quốc gia EU, là điều cần thiết nếu các quốc gia ASEAN muốn thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm kinh tế xã hội khác nhau trong xã hội và giữa các quốc gia nhỏ tiên tiến như Singapore và các nước láng giềng kém phát triển hơn như Việt Nam và Indonesia.
Các nhà hoạch định chính sách trong khu vực nhận thức rõ về thực tế này. Kể từ năm 2011, các quốc gia thành viên ASEAN đã làm việc theo một lộ trình chung để phát triển cơ sở hạ tầng CNTT. Giai đoạn đầu tiên của sáng kiến, được gọi là Kế hoạch tổng thể về CNTT ASEAN (AIM) đã kết thúc thành công vào năm 2015, với phần lớn các dự án đã hoàn thành trong khoảng thời gian quy định.
Hiện tại, các quốc gia trong khu vực đang hướng tới mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch tổng thể về CNTT năm 2020, hoặc AIM 2020, tập trung vào đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT, tăng cường hỗ trợ cho các công ty khởi nghiệp và đổi mới và các chiến dịch xóa mù số hóa. Một sáng kiến khác trong giai đoạn đầu của nó là Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2025, hay MPAC 2025 nhằm mục đích tiếp tục tiến trình do Kế hoạch tổng thể năm 2020 đặt ra.
Không thiếu sáng kiến hay tham vọng nhưng thách thức nằm ở việc chuyển đổi tham vọng thành hiện thực cụ thể. Những dấu hiệu ban đầu là tích cực, các dự án khác nhau cho thấy sự tiến bộ phù hợp trong khu vực và đóng góp giá trị từ các quốc gia đối tác như Trung Quốc và Nhật Bản.
Nhưng ASEAN là một khu vực địa chính trị đa dạng với rất nhiều nền kinh tế khác nhau, mức độ phát triển cũng khác nhau. Khu vực này cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai do vị trí địa lý của nó. Các quốc gia nhỏ hơn, giàu có hơn như Singapore sẽ dễ dàng thực hiện và tuân thủ thời gian hơn là các nước như Indonesia hoặc Việt Nam. Và cũng không thể đánh giá thấp quy mô của nhiệm vụ còn ở phía trước.