NORTEL
Nortel có tên gọi đầy đủ là Northern Telecom Limited, thành lập năm 1895, sau đó được đổi thành Nortel Networks Limited, vốn là một công ty đa quốc gia chuyên sản xuất thiết bị viễn thông, có trụ sở chính tại Toronto, Canada. Nortel từng là niềm tự hào của Canada. Thời kỳ huy hoàng của Nortel là những năm 1990 cùng với sự bùng nổ Internet và viễn thông. Lúc đó, Nortel có hơn 95.000 nhân công và số vốn hóa thị trường là 297 tỷ USD. Tuy nhiên, sau một thời gian dài kinh doanh thua lỗ, tập đoàn này đã tuyên bố phá sản và nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào đầu năm 2009 với khoản nợ lên tới gần 12 tỷ USD. Việc bán đấu giá Nortel đã được Chính phủ Canada và các tòa án ở Mỹ và Canada chấp thuận. Nortel nhận được quyền bảo hộ phá sản của tòa án vào tháng 1/2009.
Tháng 7/2009, tập đoàn viễn thông Ericsson của Thụy Điển đã thành công trong vụ đấu giá mua lại bộ phận chế tạo điện thoại không dây của Tập đoàn bị phá sản Nortel của Canada với số tiền 1,13 tỷ USD. Tham gia vụ đấu thầu trên còn có hai đối thủ khác là Nokia Siemens của Phần Lan và Matlin Patterson của Mỹ. Bộ phận chế tạo điện thoại không dây của Nortel dựa trên hai công nghệ là CDMA và LTE, trong đó LTE là công nghệ về điện thoại không dây mới cho tương lai, điều này khiến nhiều công ty viễn thông khác muốn mua lại để làm chủ. Mặc dù thương hiệu Nortel đã trở thành câu chuyện vang bóng một thời của quá khứ; các nhân viên của Nortel vẫn được duy trì công ăn việc làm, bởi sau khi thắng trong thương vụ đấu giá mua lại Nortel thì Ericsson đã thực hiện lời hứa duy trì công việc cho 2.500 nhân viên Nortel, nhất là các nhân viên đang làm việc về kỹ thuật LTE.
ERICSSON
Ericsson hiện đang là thương hiệu số một trong lĩnh vực cung cấp các giải pháp viễn thông - công nghệ thông tin - truyền thông trên thế giới. Doanh nghiệp này tỏ ra có những bước đi vững chắc và đúng hướng trong việc liên doanh, mua- bán, tách -nhập, nghiên cứu phát triển.
Việc mua lại Nortel với cái giá không hề rẻ là một quyết định quan trọng; điều này đã giúp Ericsson tạo lập vị thế mạnh hơn trên thị trường Bắc Mỹ và có nhiều lợi thế về công nghệ.
Năm 2002, Ericsson và Sony cùng hợp tác gây dựng liên doanh Sony-Ericsson nhằm tận dụng sức mạnh từ mỗi bên: danh tiếng của Sony trong lĩnh vực thiết bị, và Ericsson trong mảng kinh doanh không dây. Tuy nhiên sau 10 năm liên doanh, đến năm 2012, Sony đã mua lại cổ phần của Ericsson trong liên doanh Sony-Ericsson. Định hướng mới của Sony là tập trung vào sản xuất điện thoại thông minh (smartphone), laptop, máy tính bảng, ti-vi... tới người dùng, và mở ra thế giới giải trí trực tuyến mới. Trong khi đó Ericsson công bố ý định mua lại Red Bee Media từ ngày 1/7/2013. Việc hoàn tất mọi thủ tục mang đến cho Ericsson một danh sách các khách hàng lớn trong lĩnh vực phát thanh truyền hình ví dụ như BBC, BSkyB, BT Sport, Canal Digital, Channel 4, EE, UKTV, Virgin Media. Ngoài ra, Ericsson sẽ có thêm nhân viên và các trụ sở triển khai dịch vụ và vận hành tại Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Úc.
Hiện Ericsson có hơn 5.000 nhân viên tại Anh và gần 1/3 số lượng đó làm việc trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Theo tầm nhìn của Ericsson về ngành công nghệ Media 2020, ngành Truyền hình tới năm 2020 sẽ trở thành ngành công nghiệp 750 tỉ đô la Mỹ. Trong số 50 tỉ kết nối năm 2020, dự kiến có hơn 15 tỉ kết nối có tính năng video. Việc mua lại này mở rộng thêm năng lực của Ericsson trong lĩnh vực phát thanh truyền hình nói riêng và trong toàn ngành công nghiệp truyền hình, vốn được Ericsson bắt đầu khai thác từ năm 2007. Ericsson hợp tác với các đối tác cung cấp giải pháp truyền tải nội dung số, nâng cao hiệu quả kinh doanh các nội dung truyền hình. Việc mua lại cụ thể tập trung vào việc mở rộng năng lực cung cấp dịch vụ sáng tạo, dịch vụ truy cập và các hình ảnh thể thao, đồng thời tăng cường chuyên môn của Ericsson trong lĩnh vực playout và quản lý media. Hiện Ericsson có trên 2.000 khách hàng là các nhà cung cấp dịch vụ Truyền hình và phát thanh ở trên 100 quốc gia. 60% các nhà nhà cấp dịch vụ nội dung truyền hình hàng đầu thế giới đang sử dụng hệ thống quản lý nội dung của Ericsson. Hơn 50% dịch vụ video-on- demand trên thế giới đang được vận hành dựa vào công nghệ của Ericsson. Nền tảng IPTV của Ericsson đạt thị phần 25% và cung cấp cho 15 triệu hộ gia đình trên toàn thế giới. Giải pháp của Ericsson bao gồm dịch vụ phát thanh truyền hình, phát sóng video qua mạng LTE, cung cấp hạ tầng truyền tải giải pháp truyền hình, Multiscreen TV và vận hành mạng viễn thông di động và cố định chuyên cung cấp cấp nội dung truyền hình chất lượng cao.
Ericsson là nhà cung cấp thiết bị LTE hàng đầu thế giới, khoảng 50% lưu lượng LTE trên các smartphone toàn cầu được thực hiện trên thiết bị của Ericsson. Chính những nỗ lực của những nhà nghiên cứu và cộng sự của họ đã giúp cho Ericsson chiếm lĩnh khoảng 25% bản quyền trong lĩnh vực LTE. Sự kiện gần đây nhất là việc 8 chuyên gia nghiên cứu của Ericsson nhận được đề cử cho Giải thưởng Phát Minh Châu Âu cho lĩnh vực LTE bởi Cục Sở hữu trí tuệ châu Âu, ghi nhận vai trò đứng đầu của Ericsson trong những sáng tạo trong lĩnh vực 4G. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 17/6/2014 tại Berlin, Đức. Sự đề cử này là sự ghi nhận quan trọng đối với công sức nghiên cứu và trọng tâm của Ericsson trong lĩnh vực nghiên cứu sáng tạo. Công nghệ 4G này đã mang lại những tiến bộ vượt bậc về vùng phủ, dung lượng, tốc độ download và upload cao gấp nhiều lần so với những công nghệ trước đó. Không dừng lại ở đó, Ericsson tiếp tục đầu tư phát triển và đặt nền móng cho mạng di động thế hệ kế tiếp 5G.
HUAWEI & ZTE
Có vẻ là thiếu nếu không nhắc đến Huawei và ZTE là hai nhà cung cấp thiết bị giải pháp viễn thông hiện nay. Hai nhà cung cấp này đều là các doanh nghiệp Trung Quốc và được thành lập cách đây chưa lâu: ZTE được thành lập từ năm 1985, Huawei được thành lập từ năm 1988. Vào thập niên cuối thế kỷ 20, khi các thương hiệu Nortel, Siemens, Alcatel, Ericsson nổi bật trên bản đồ viễn thông thế giới thì Huawei và ZTE chưa có vị trí nào đáng kể. Tuy nhiên hai doanh nghiệp này đã có sự phát triển nhanh chóng đáng kinh ngạc.
Hiện nay, Huawei phục vụ 31 trong số 50 công ty khai thác viễn thông hàng đầu thế giới. Nó cũng chiếm 55% thị phần toàn cầu trong lĩnh vực nối mạng bằng dongle 3G di động. Hàng năm Huawei đầu tư khoảng 10% doanh thu hàng năm của mình để nghiên cứu và phát triển (R&D) và trong đó 46% nhân lực tham gia vào nghiên cứu và phát triển. Công ty này có trung tâm nghiên cứu và phát triển ở Bắc Kinh, Thành Đô, Nam Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, Thâm Quyến, Vũ Hán và Tây An, Trung Quốc Ottawa, Canada, Bangalore, Ấn Độ;
Jakarta, Indonesia, Mexico City, Mexico; Wijchen, Hà Lan, Karachi và Lahore, Pakistan, Ferbane, Cộng hòa Ireland, Moscow, Nga, Stockholm, Thụy Điển, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ và Dallas và Silicon Valley, Hoa Kỳ.
Doanh số bán hàng của Huawei năm 2013 đạt tới 239 tỉ NDT (tương đương khoảng 39,46 tỉ USD), tăng 8,5% so với năm trước (nếu tính theo đồng USD thì tốc độ tăng trưởng đạt 11,6%), và lợi nhuận ròng đạt 21 tỷ NDT (tương đương khoảng 3,467 tỉ USD). Trong năm 2013, mảng kinh doanh hạ tầng viễn thông của Huawei đã đạt 166,5 tỉ NDT doanh thu, tăng 4% so với năm trước. Doanh số của mảng kinh doanh giải pháp cho doanh nghiệp và sản phẩm, thiết bị tiêu dùng cũng đều tăng trưởng rất mạnh mẽ trong năm 2013, tương ứng là 32,4% (15,2 tỉ NDT) và 17,8% (57 tỉ NDT). Trong năm 2013, 65% doanh số của Huawei đến từ các thị trường bên ngoài Trung Quốc, và tại thị trường nội địa, Huawei đã đạt 84 tỉ NDT doanh số bán hàng, tăng 14,2% so với năm trước.
ZTE sau những năm phát triển đã có những dấu hiệu suy thoái khi đầu năm 2013 đã công bố kết quả sản xuất kinh doanh thua lỗ từ 2,5 đến 2,9 tỉ nhân dân tệ. Các nguyên nhân sau đây đã dẫn đến việc thua lỗ của Công ty: việc ký kết một số các hợp đồng hệ thống trong nước bị kéo dài, giá cả thiết bị đầu cuối xuống thấp, tiến độ của một số công trình trúng thầu quốc tế triển khai chậm, và thừa nhận một số hợp đồng có tỉ suất lợi nhuận quá thấp. Đứng trước tình hình thua lỗ nặng nề này, ZTE đã lần lượt bán bớt quyền sở hữu các công ty con của mình như: 68% quyền sở hữu công ty thiết bị đặc chủng, 81% quyền sở hữu công ty đầu tư Trường Phi, 81% quyền sở hữu công ty TNHH kĩ thuật Trung Hưng -Lực Duy Thâm Quyến thu về khoảng 1,63 tỷ đến 2,17 tỉ nhân dân tệ...
Mặc dù phát triển rất nhanh, tuy nhiên cả hai doanh nghiệp Huawei và ZTE đều có vấn đề về hình ảnh công ty. Nhiều quốc gia lo ngại về an ninh nếu mua thiết bị của 2 doanh nghiệp này bởi nhà cung cấp hoàn toàn có khả năng đưa vào thiết bị mạng những tính năng ẩn để điều khiển hoạt động của mạng thông tin.
ĐIỀU TẤT YẾU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
Chúng ta đang chứng kiến sự cạnh tranh toàn cầu về sản xuất và thị trường. Ranh giới của một ngành đã không dừng lại ở biên giới quốc gia. Nhiều ngành đang có phạm vi toàn cầu, các đối thủ hiện tại và tiềm tàng tồn tại không chỉ trong thị trường nội địa, mà còn ở trong các thị trường ở các quốc gia khác. Với mục tiêu là để hạ thấp chi phí và nâng cao lợi nhuận, các công ty ngày càng phân tán các bộ phận của quá trình sản xuất của nó đến các địa điểm khác nhau trên khắp thế giới để giành lợi thế của các khác biệt quốc gia, địa phương về chi phí, lao động, năng lượng, đất đai và tiền vốn. Việc giảm các rào cản thương mại đã mở cửa nhiều thị trường vốn được bảo vệ để cho các công ty bên ngoài tham gia. Sự phát triển toàn cầu trong suốt hai mươi năm qua đã làm sâu sắc thêm sự ganh đua mang tính cạnh tranh.
Viễn thông và CNTT là ngành phát triển mạnh mẽ trong hơn hai mươi năm qua và cũng là ngành cạnh tranh rất khốc liệt. Chúng ta đã chứng kiến sự ra đi của những thương hiệu nổi tiếng, sự sáp nhập các doanh nghiệp hay các bộ phận kinh doanh toàn cầu khổng lồ có nguồn gốc ở hai quốc gia, thâm chí hai châu lục khác nhau, sự phát triển bền vững hay sự tăng trưởng nóng. tất cả đã và đang diễn ra trong lĩnh vực viễn thông và CNTT.
Về phía "thượng đế“: các khách hàng trên toàn thế giới đang yêu cầu và sử dụng việc cung cấp sản phẩm cùng một nền tảng, điều này đặc biệt rõ đối với các sản phẩm và dịch vụ viễn thông. Sự cạnh tranh khốc liệt đã làm giảm mức lợi nhuận của các doanh nghiệp viễn thông nhưng người sử dụng đã được hưởng lợi. Sự cạnh tranh làm cho tất cả các công ty hướng một cách tích cực hơn đến việc cực đại hóa hiệu quả, chất lượng, trách nhiệm với khách hàng và khả năng cải tiến. Tính khốc liệt cạnh tranh tăng lên, cùng với mức độ cải tiến. Các công ty cố gắng giành được một lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh khác bằng cách dẫn đầu về các sản phẩm mới, các quá trình công nghệ và cách thức kinh doanh. Sự đầu tư phát triển công nghệ trở nên cần thiết sống còn cho sự tồn tại công ty.
Mặc dù toàn cầu hóa ngày càng làm tăng tính khốc liệt của sự cạnh tranh trong thị trường viễn thông và CNTT song nó cũng đã tạo ra những cơ hội to lớn cho các công ty trên các thị trường này. Tách hay nhập, bài toán tái cấu trúc là điều tất yếu của sự phát triển.
Quý Minh
(Nguồn tham khảo: www.alcatel-lucent.com; www.siemens. com.vn; www.rokia.com; www.nsn.com; www.ericsson.com; www.huawei.com; vietramret.vr; vrexpress.net; ttpress.vr; ictrews.vr...)