Truyền thông

Phát huy hiệu quả công tác ứng phó với thiên tai tại khu vực Duyên hải miền Trung

T.Đ.H 03/12/2023 16:22

Vùng (DHMT) là một trong những vùng dễ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi thiên tai. Mỗi năm, khu vực này phải hứng chịu khoảng 43,6% tổng số trận bão ở Việt Nam, trong đó có nhiều trận bão lớn và siêu bão.

Vùng duyên hải miền Trung (DHMT) của Việt Nam gồm vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, có 14 tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. DHMT là nơi chịu ảnh hưởng của hầu hết các loại thiên tai thường xảy ra ở Việt Nam nhưng với tần suất cao hơn và mức độ mạnh hơn như: Bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, lũ quét, sạt lở đất, lốc tố, dông sét,... Trong đó, phổ biến nhất là bão, lũ, lũ quét, hạn hán và sạt lở đất.

Vùng DHMT là một trong những vùng dễ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi thiên tai. Mỗi năm, khu vực này phải hứng chịu khoảng 43,6% tổng số trận bão ở Việt Nam, trong đó có nhiều trận bão lớn và siêu bão. Cụ thể, bão, áp thấp nhiệt đới đổ bộ nhiều nhất vào tháng 9-11 (chiếm 70%), ảnh hưởng sớm nhất vào cuối tháng 3, muộn nhất là tháng 1 năm sau. Với mưa, lũ, mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 8 và kết thúc vào tháng 12, muộn dần từ Bắc vào Nam. Qua các trận lũ lịch sử trong vòng 15 năm trở lại đây cho thấy mức độ ngập lụt ngày càng tăng, độ sâu ngập lụt tăng mạnh, có nơi ngập sâu tới 4-5m, trong nhiều ngày, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống.

Về hạn hán, xâm nhập mặn, đây là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của hạn hán, đặc biệt là từ năm 2014 đến nay. Ngoài ra, sạt lở đất, sạt lở bờ sông, bờ biển là một trong những loại hình thiên tai xuất hiện ở vùng này.

Hiện vùng DHMT đang phải đối mặt với tình trạng xói lở bờ biển đáng lo ngại. Tổng chiều dài của các đoạn bờ biển bị xói lở từ tỉnh Quảng Nam đến Phú Yên là 492 km, tác động đến 65 khu vực và 105 đoạn bờ biển. Trong đó Quảng Nam xói lở dài gần 19 km, Quảng Ngãi trên 35 km, Bình Định gần 34 km, Phú Yên gần 21 km. Ở Nghệ An, có 45 xã ven biển thì 19 xã bị xói lở, tổng chiều dài xói lở 19 km. Đáng báo động, mỗi năm khu vực này ở Nghệ An mất gần 100 ha đất ven biển, tốc độ xói lở từ 150 đến 200m/năm, khiến một số đoạn bờ biển đã xói lở đến gần khu dân cư.

Tại Quảng Bình, khu vực bị sạt lở hàng trăm mét, hàng trăm hộ dân bị mất nhà phải di dời vào sâu trong đất liền. Hậu quả của xói lở bờ biển và mất đất gây thiệt hại nặng nề về sinh mạng, tài sản, cơ sở hạ tầng và đất đai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chung.

1.jpg
Ảnh minh họa

Trước tình hình đó, Chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17/3/2021 tại Quyết định số 379/QĐ-TTg đối với công tác phòng chống thiên tai tại khu vực này đã nêu rõ các nhiệm vụ, giải pháp để DHMT phát huy hiệu quả công tác ứng phó với thiên tai:

Trước hết, khu vực DHMT cần xây dựng, củng cố hệ thống cảnh báo đa thiên tai, theo dõi và giám sát mưa, lũ, sạt lở đất, ngập lụt kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, ưu tiên hệ thống quan trắc kết hợp cảnh báo mưa,… hướng dẫn xây dựng nhà ở, công trình kết hợp sơ tán dân đảm bảo an toàn trước thiên tai, nhất là bão, lũ, ngập lụt; thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo, gia đình chính sách xây dựng nhà ở phòng tránh bão, lụt; Củng cố, nâng cấp bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước, đê biển, đê cửa sông, công trình thủy lợi, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; vận hành hiệu quả hồ chứa nước đảm bảo an toàn công trình, vùng hạ du, đồng thời phục vụ phòng, chống lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, nhất là các hồ Tả Trạch, Ba Hạ,…

Cùng với đó, khu vực này cần làm tốt công tác phân vùng rủi ro, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, nhất là những nơi có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất chi tiết đến cấp xã, cập nhật bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa ứng với các kịch bản xả lũ và vỡ đập, bản đồ ngập lụt do bão mạnh, siêu bão, bản đồ ngập lụt các lưu vực sông; xây dựng công trình phòng, chống lũ quét, sạt lở đất tại các khu vực trọng điểm, xung yếu. Khu vực này chủ động di dời dân cư sinh sống tại khu vực ven sông, suối, sườn đồi núi, ven biển có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở, khu vực thấp trũng bị ngập sâu; Tổ chức xây dựng, rà soát, diễn tập, triển khai phương án phòng, chống thiên tai, đặc biệt là sơ tán dân cư khẩn cấp và khắc phục hậu quả khi xảy ra tình huống nguy hiểm tại những nơi chưa thể di dời theo phương châm 4 tại chỗ.

Đồng thời, tại khu vực duyên hải miền Trung, cần quản lý chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, cơ sở hạ tầng, nhất là khu dân cư, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng ven sông, ven biển, công trình giao thông; Khắc phục tình trạng xây dựng nhà ở, công trình tại khu vực nguy cơ sạt lở, cản trở dòng chảy, lấn chiếm lòng sông, suối, bạt sườn dốc để xây dựng công trình, nhà ở làm gia tăng rủi ro thiên tai; Mở rộng khẩu độ thoát lũ đối với các công trình giao thông, khắc phục bồi lấp cửa sông, cải tạo lòng dẫn, kết hợp khơi thông luồng lạch đảm bảo không gian thoát lũ, tránh làm gia tăng ngập lụt.

Khu vực DHMT cần tăng cường hơn nữa công tác quan trắc chuyên ngành, theo dõi, giám sát cung cấp thông tin phòng, chống thiên tai; quản lý tàu thuyền và các hoạt động trên biển, trong đó tập trung quản lý việc ra khơi, kỹ thuật neo đậu đảm bảo an toàn tại các khu tránh trú và quản lý các tàu vận tải, tàu vãng lai khi có bão, áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông.

Các tỉnh khu vực DHMT cần tăng cường kiện toàn, nâng cao năng lực cơ quan phòng, chống thiên tai các cấp theo hướng chuyên trách trên cơ sở sắp xếp lại bộ máy, không làm tăng biên chế, đồng thời củng cố trung tâm chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai của Trung ương, vùng và cấp tỉnh; Điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế chính sách văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao năng lực cơ quan phòng, chống thiên tai, huy động sự tham gia của cộng đồng, phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, lồng ghép công tác phòng, chống thiên tai trong các hoạt động của xã hội, hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp...

Bên cạnh đó, khu vực DHMT cần rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông theo hướng tăng cường quy chế phối hợp giữa Ban Chỉ huy các địa phương trong lưu vực; Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương; Tiếp tục đầu tư cho quản lý và bảo vệ nghiêm ngặt rừng phòng hộ; Đồng thời tăng đầu tư các loại rừng khác, đảm bảo độ che phủ cũng như khả năng điều tiết của rừng phòng hộ; Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu trong công tác phòng, chống thiên tai tại khu vực này…

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Phát huy hiệu quả công tác ứng phó với thiên tai tại khu vực Duyên hải miền Trung
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO