Chuyển đổi số tạo môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia đi đầu về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào năm 2030. Trong đó, chuyển đổi số sẽ tạo môi trường tốt cho đổi mới sáng tạo, nhu cầu phát triển công nghệ, đặt bài toán cho nghiên cứu khoa học.

Tiếp cận đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, ĐMST của doanh nghiệp (DN) đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực KHCN đạt trình độ quốc tế.
Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 DN công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến.
Mục tiêu đến năm 2045, KHCN, ĐMST và chuyển đổi số (CĐS) phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về ĐMST, CĐS.
Những mục tiêu cao này có thể đạt được bằng cách ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng số, các ngành công nghiệp số và nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, đặc biệt là từ các tập đoàn lớn.
Nghị quyết 57 nêu ra một số giải pháp chính, bao gồm tăng cường hợp tác giữa chính phủ, các nhà khoa học và DN, đặc biệt là trong chuỗi "đầu tư - nghiên cứu - thương mại hóa". Chính phủ sẽ đóng vai trò quan trọng bằng cách tài trợ cho nghiên cứu thông qua các cơ chế linh hoạt, đảm bảo các khoản chi được giải ngân nhanh chóng.
Phương pháp tiếp cận hợp đồng dựa trên hiệu suất cũng sẽ cho phép các nhà khoa học tập trung vào việc đạt được kết quả tối ưu, với các tổ chức nghiên cứu, nhân viên và các bên liên quan được hưởng lợi trực tiếp từ kết quả của họ.
Cùng với đó, việc đưa ra cơ chế "sandbox" (thử nghiệm) sẽ cho phép các DN và nhà nghiên cứu thử nghiệm các công nghệ và mô hình kinh doanh mới trong môi trường do nhà nước giám sát. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao và thương mại hóa các công nghệ tiên tiến, thúc đẩy ĐMST.
Nghị quyết cũng giao nhiệm vụ cho các DN lớn giải quyết những thách thức đáng kể và hỗ trợ các công ty khởi nghiệp sáng tạo có thể phát triển thành những gã khổng lồ công nghệ trong tương lai. Để khuyến khích đầu tư vào R&D, chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp tăng cường sự hợp tác giữa nhà nước, các nhà khoa học và DN.
Để đạt được những mục tiêu này, ông Nguyễn Đức Minh, Tham tán kiêm Trưởng đại diện KHCN của Việt Nam tại Nhật Bản, cho biết cần phải áp dụng những cách tiếp cận sáng tạo, đột phá trong KHCN, ĐMST và CĐS. Các nước phát triển và mới nổi đang đầu tư mạnh vào KHCN, theo đó, Việt Nam phải hành động nhanh chóng, đổi mới và phù hợp với xu hướng toàn cầu trong khi thích ứng với hoàn cảnh của chính mình.
Ông Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của cộng đồng trí thức Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là những người ở Nhật Bản, trong việc thúc đẩy tiến bộ KHCN của Việt Nam. Với hơn 600.000 công dân Việt Nam đang cư trú tại Nhật Bản, nhiều người trong số họ giữ các vị trí quan trọng trong các trường đại học, phòng nghiên cứu và các tập đoàn lớn, những đóng góp của họ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sẽ vô cùng quý giá.
Để khai thác tiềm năng này, ông Nguyễn Đức Minh đề xuất chính phủ và khu vực tư nhân xác định các vai trò cụ thể cho các chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài muốn trở về Việt Nam, cung cấp các ưu đãi và môi trường thuận lợi cho nghiên cứu, bao gồm hỗ trợ tài chính và công nghệ.
Những người chọn ở lại nước ngoài vẫn có thể đóng vai trò là đầu mối quan trọng về nguồn lực, tham gia đào tạo, tư vấn chính sách, cố vấn, trao đổi kiến thức, hợp tác nghiên cứu và tạo điều kiện cho hợp tác quốc tế.
Về lâu dài, các chuyên gia nước ngoài có thể chuyển sang các vai trò trực tiếp tại Việt Nam, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển KHCN của quốc gia. Chính phủ và các DN nên áp dụng các chính sách có mục tiêu để tăng cường quan hệ đối tác quốc tế và thu hút nhân tài mới để hỗ trợ quá trình CĐS của đất nước.
Chuyển mọi hoạt động lên môi trường số và thay đổi hoạt động của các tổ chức bằng công nghệ
Bộ KH&CN hiện nay đang là đơn vị nòng cốt để thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, KHCN, ĐMST và CĐS phải nhằm vào mục tiêu cuối cùng là tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Trong “bộ ba” này, Bộ trưởng cho biết, KHCN là nền tảng tạo ra tri thức và công cụ mới. ĐMST là động lực, chuyển hóa các tri thức, công cụ mới thành ý tưởng và giải pháp để giải quyết các bài toán kinh tế - xã hội.
CĐS tạo ra môi trường số và công cụ số để hiện thực hoá các ý tưởng, giải pháp ĐMST thành các sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh mới và phổ cập vào cuộc sống để tạo ra giá trị thực tế đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thúc đẩy CĐS thì chủ yếu là các quyết định hành chính, chuyển mọi hoạt động lên môi trường số và thay đổi hoạt động của các tổ chức bằng công nghệ, nhất là AI, đây không phải vấn đề công nghệ mà chủ yếu là thể chế và các quyết định hành chính, có thể làm nhanh được.
Đất nước đang đặt mục tiêu tăng trưởng 10%. Đảng và Nhà nước đã xác định tăng trưởng chính phải dựa trên KHCN, ĐMST và CĐS. Theo đó, Bộ trưởng nhấn mạnh: "KHCN, ĐMST phải đóng góp đến 5%. Trong 5% đóng góp đó, ĐMST phải đóng góp 3%, CĐS là 1,5%, KHCN là 0,5%. ĐMST phải đóng góp chính. Theo đó, đây có thể được xem là lần đầu tiên trong lịch sử ngành mình có một mục tiêu đóng góp vào sự tăng trưởng GDP một cách tường minh”.
Với những kết quả đạt được về CĐS trong những năm qua, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết: “CĐS tạo ra môi trường tốt cho ĐMST, tạo ra nhu cầu phát triển công nghệ, đặt ra bài toán về nghiên cứu khoa học”.
Cũng theo Bộ trưởng, Luật KH&CN năm 2013 đang được sửa đổi và dự kiến Quốc hội sẽ thông qua vào tháng 5, trở thành Luật KHCN và ĐMST. Mặc dù ĐMST là một lĩnh vực mới, nhưng sẽ quyết định hiệu quả của KH, CN và sẽ tạo ra tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của đất nước.
CĐS thành công thúc đẩy ĐMST trong DN, tổ chức
Theo công ty tư vấn chiến lược toàn cầu Boston Consulting Group (BCG), các công ty như Netflix và Apple đã đạt được thành công trong thời gian gần đây với sự trợ giúp của công nghệ. Các công ty này là những ví dụ điển hình về cách một chiến lược CĐS thành công dẫn đến ĐMST trong ngành.

CĐS là sự tích hợp công nghệ vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh, làm thay đổi cách một công ty hoạt động và mang lại giá trị cho nhân viên, khách hàng. Quá trình chuyển đổi cải thiện hoạt động kinh doanh và giúp các công ty, tổ chức đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của các thị trường đột phá.
Công nghệ liên tục phát triển sẽ thử thách các hoạt động kinh doanh truyền thống và các công ty cần nhận thức được tiềm năng của công nghệ và thích nghi.
Cũng theo BCG, CĐS có thể: Cải thiện hiệu quả hoạt động; Thay đổi văn hóa và hình ảnh của công ty; Mở rộng phạm vi hoạt động của công ty.
Trong khi đó, ĐMST là việc tái hiện các quy trình, sản phẩm và dịch vụ hiện có. Điều này không thể xảy ra nếu không có sự chuyển đổi. Khi quá trình chuyển đổi diễn ra và thực tế mới được thiết lập, ĐMST sẽ thách thức các chuẩn mực mới.
Ví dụ, khi phương tiện truyền thông xã hội ra đời đã thay đổi lĩnh vực tiếp thị vĩnh viễn. Một số thương hiệu đã đưa ra những cách tiếp thị độc đáo trên phương tiện truyền thông xã hội, giúp tăng lợi nhuận của DN. Như vậy, các tổ chức cần đẩy mạnh CĐS để thúc đẩy ĐMST./.