Cục An toàn bức xạ và hạt nhân phải là cơ quan điều phối chiến lược quốc gia về an toàn hạt nhân
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng chỉ đạo Cục An toàn bức xạ và hạt nhân cần chuyển đổi từ cơ quan hành chính thành cơ quan điều phối chiến lược quốc gia về an toàn hạt nhân, có năng lực kỹ thuật, có thẩm quyền độc lập và có tư duy quốc tế hóa. Cục là tổng chỉ huy các lực lượng thuộc lĩnh vực quản lý.
Ngày 31/7/2025, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng và lãnh đạo Bộ đã có buổi làm việc với Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) của Bộ. Tham dự buổi làm việc có Thứ trưởng Lê Xuân Định và lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ.

Ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Cục ATBXHN có tiền thân là Ban ATBXHN được thành lập năm 1994. Năm 2003, Cục Kiểm soát và ATBXHN được thành lập và đổi tên là Cục ATBXHN năm 2008. Tháng 3/2005, Cục ATBXHN và Vụ Năng lượng nguyên tử (NLNT) được hợp nhất theo Quyết định của Bộ KH&CN.
Cục ATBXHN là cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về ATBXHN và NLNT, tham mưu Bộ trưởng, xây dựng pháp luật và chính sách; cấp phép bức xạ và dịch vụ NLNT; thanh tra chuyên ngành; ứng phó sự cố; hợp tác quốc tế (HTQT); phát triển hạ tầng điện hạt nhân, nguồn nhân lực; hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, đào tạo.
Cục cũng thực hiện QLNN về an toàn, an ninh, thanh sát, ứng phó sự cố bức xạ hạt nhân; nghiên cứu, phát triển ứng dụng NLNT; đầu mối hợp tác quốc tế HTQT.
Cục có sứ mệnh: xây dựng hạ tầng pháp quy hạt nhân quốc gia, bảo đảm an toàn, an ninh, quản lý ứng dụng NLNT phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ con người, môi trường và hội nhập quốc tế.
Báo cáo tại buổi làm việc, ông Nguyễn Hoàng Linh, Cục trưởng Cục ATBXHN cho biết đơn vị đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật NLNT tại Quốc hội khoá XV kỳ họp thứ 9 vừa qua.

Cục đã thẩm định và cấp 7.022 giấy phép công việc bức xạ (với mức tăng trung bình khoảng 9 - 10%/năm), 280 giấy đăng ký hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT, 4727 chứng chỉ nhân viên bức xạ và chứng chỉ hành nghề (tăng trung bình khoảng 8%/năm), phê duyệt 220 kế hoạch ứng phó sự cố cấp cơ sở; trình Bộ KH&CN cấp 63 giấy phép, thẩm định và phê duyệt 6 kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh.
Cục là đầu mối hoạt động HTQT về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân và hợp tác kỹ thuật với Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA), Liên minh châu Âu (EU) và các đối tác quốc tế; Đầu mối giúp Bộ KH&CN triển khai một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực NLNT; Hợp tác ba bên IAEA-Việt Nam - Lào/Campuchia để hỗ trợ Lào và Campuchia phát triển ứng dụng NLNT, năng lực quản lý ATBXHN.
Cục điều phối 6 dự án quốc gia (VIE), 17 dự án vùng, liên vùng, khu vực (RAS, INT) về tăng cường năng lực và thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng kỹ thuật hạt nhân vào các ngành, lĩnh vực; Trực tiếp triển khai 3 dự án (VIE9020, VIE9021, VIE9022) về phát triển hạ tầng pháp quy hạt nhân trong y tế và công nghiệp.
Cục là đơn vị chủ tịch luân phiên Mạng lưới cơ quan pháp quy hạt nhân ASEAN (ASEANTOM) năm 2020, Chủ tịch luân phiên Mạng lưới Thanh sát hạt nhân châu Á - Thái Bình Dương (APSN) năm 2021 - 2022.
Về phát triển, ứng dụng NLNT, Cục tổ chức đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình đến năm 2020; Đầu mối xây dựng Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 245/QĐ-TTg) và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch.
Cục là đầu mối thực hiện công tác phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân quốc gia (hiện đang phối hợp IAEA và các cơ quan liên quan của Việt Nam triển khai đánh giá phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân ở Việt Nam theo hướng dẫn của IAEA)..
Cục cũng thực hiện hỗ trợ công tác QLNN về an toàn, an ninh, thanh sát, ứng phó sự cố bức xạ hạt nhân, thực hiện điều ước quốc tế và thông tin tuyên truyền…
Triển khai phân cấp, phân quyền chặt chẽ, công khai minh bạch.
Tại buổi làm việc, lưu ý Cục ATBXHN về một số công việc trọng tâm trong thời gian tới, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định đề nghị Cục cần tuân thủ việc phân cấp, phân quyền. Theo đó, Cục ký các giấy phép liên quan đến ATBXHN nhưng phải theo quy trình chặt chẽ, công khai, minh bạch.

Thứ trưởng cũng lưu ý ngoài trách nhiệm xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Cục còn là cơ quan tham mưu cho Bộ, Chính phủ để đưa ra những ứng phó gần, xa đối với điện hạt nhân, ứng dụng NLNT và ATBXHN. Cùng với đó, Cục phải lưu ý phải thực hiện được các báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý.
Thứ trưởng cũng đề nghị Cục đề xuất được các tiêu chuẩn kỹ thuật bởi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quản lý cấp quốc gia và xây dựng nền tảng số để Luật NLNT có hiệu lực thì có nền tảng số để triển khai.
Cùng với đó, Cục cần coi HTQT trong giai đoạn mới là một động lực quan trọng để đào tạo nhân lực, tham gia dự án quốc tế.
Thập kỷ về năng lượng hạt nhân ở Việt Nam và hành động
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã lắng nghe Cục ATBXHN báo cáo, các ý kiến của các cán bộ của đơn vị và trực tiếp giải đáp một số khó khăn, vướng mắc của Cục ATBXH đặt ra tại buổi làm việc.

Theo Bộ trưởng, năm 2025, Cục ATBXHN bước sang năm thứ 31 và thập kỷ thứ 4 hoạt động với đặc điểm đây là thập kỷ về năng lượng hạt nhân Việt Nam. Đây cũng cũng là thập kỷ Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ, đưa công nghệ điện hạt nhân thành công nghệ chiến lược quốc gia, là thập kỷ Việt Nam tuyên bố đưa NLNT ứng dụng rộng rãi vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Cục ATBXHN vừa có Cục trưởng mới có kinh nghiệm trong QLNN. Đây là thử thách cho Cục trưởng và Cục trưởng mới phải chứng minh khả năng.
Theo Bộ trưởng, “Người đứng đầu quốc gia về lĩnh vực ATBXHN đóng vai trò quan trọng nhất là điều phối, thống nhất lực lượng, bởi nguồn lực hiện tại, lực lượng của lĩnh vực đang bị phân tán ở các bộ ngành, tổ chức quốc tế, hay ở nước ngoài. Sắp tới, ATBXHN cũng được mở cho dân sự nên rất cần người biết thống nhất lực lượng, nhưng cũng cần vai của một người nắm năng lực lõi”.
Tiếp đó, Bộ trưởng đã trao đổi với Cục năm xu thế phát triển của lĩnh vực và những nhiệm vụ trọng tâm Cục ATBXHN cần đổi mới.
Nhìn ra thế giới, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhận định lĩnh vực ATBXHN và ứng dụng NLNT có một số xu thế cần quan tâm.
Đầu tiên là câu chuyện tách bạch giữa quản lý an toàn bức xạ và phát triển hạt nhân. Theo xu hướng, an toàn bức xạ luôn hướng tới an toàn tuyệt đối, trong khi ứng dụng luôn hướng tới ứng dụng nhiều hơn. Cục ATBXHN nghiên cứu tổ chức 2 mảng công việc này này thành 2 phòng độc lập nhưng độc lập là tương đối sẽ thuận lợi hơn.
Theo phân tích của Bộ trưởng, thế hệ lò phản ứng thứ tư đã an toàn hơn. Khi an toàn hơn, việc quản lý an toàn sẽ cần “nhẹ tay” hơn. Luật NLNT vừa được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 9 thông qua có định hướng quản lý này. Cần chia thành các cấp độ rủi ro để có cách quản lý khác nhau. Những gì rủi ro thấp quản lý “lỏng hơn” để phát triển.
Trong Cục ATBXHN có 2 vế quản lý: an toàn và phát triển. Năng lượng hạt nhân có tính rủi ro, nên cần chú ý việc có tính độc lập tương đối. Điều này không thể hiện ở trong việc quản lý ứng dụng, mà thể hiện ở chỗ QLNN về cấp phép.
Bộ trưởng cũng cho rằng Cục ATBXHN cũng phải có sự độc lập tương đối cả về thể chế và kỹ thuật. Vừa qua, Cục đã chủ trì xây dựng thể chế là Luật NLNT sửa đổi nhưng cần phải có sự độc lập tương đối cả về kỹ thuật.
“Viện NLNT có thể đóng vai trò như một “đơn vị sân sau” hỗ trợ kỹ thuật, nhưng Cục ATBXHN phải có năng lực độc lập, tránh việc không nắm gì về kỹ thuật”.
Về năng lực chuyên môn, nhân lực và công nghệ, theo Bộ trưởng, hiện cũng có nhiều thay đổi. Cục cần tìm hiểu công nghệ giám sát, sử dụng các công nghệ mới nhất, đặc biệt là giám sát từ xa, đào tạo chuyên sâu, phân tích sự cố, ứng phó khẩn cấp, mô phỏng thử nghiệm về an toàn. Cục ATBXHN bắt buộc phải có mô phỏng thử nghiệm về an toàn.
Có phòng thí nghiệm riêng, Cục cũng cần thực hiện đào tạo chuyên sâu về phân tích sự cố, nghiên cứu sâu về ứng phó khẩn cấp. Ngoài ra, còn có các công nghệ giám sát mới nhất để cảnh báo sớm.
Xu thế thứ tư, theo Bộ trưởng, cần tăng tính minh bạch và giám sát xã hội. “Việt Nam sẽ có nhiều nhà máy điện hạt nhân ở nhiều nơi, đồng nghĩa sẽ có những nguy cơ, người dân sẽ lo lắng. Do đó, cần có những báo cáo công khai cho xã hội. Việc công khai để cho xã hội yên tâm tin tưởng, không lo sợ quá, cũng để xã hội góp phần giám sát, cảnh báo”.
Xu thế thứ năm là lĩnh vực NLNT vẫn là câu chuyện có tính quốc tế cao. Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA) là cơ quan mạnh nhất. Cục cần phối hợp quốc tế chặt chẽ, tuân thủ công ước quốc tế.
Chuyển đổi từ cơ quan hành chính thành cơ quan điều phối chiến lược quốc gia về an toàn hạt nhân
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chỉ đạo Cục nên chuyển đổi từ cơ quan hành chính thành cơ quan điều phối chiến lược quốc gia về an toàn hạt nhân, có năng lực kỹ thuật, có thẩm quyền độc lập và có tư duy quốc tế hóa, có nghĩa Cục là tổng chỉ huy các lực lượng. Vai trò điều phối của Cục rất quan trọng.

Cụ thể, Bộ trưởng nhấn mạnh Cục ATBXHN là cơ quan quản lý quốc gia hoạt động độc lập, được thể chế hóa về ATBXHN. Theo đó, cơ quan quản lý quốc gia ngoài việc cấp phép hoạt động, dừng nhà máy… phải xác định quyền cơ quan đầy đủ. Phải xác định được tính độc lập của việc xây dựng thể chế và phát triển.
Cục cần nâng cấp năng lực đánh giá, giám sát và ứng phó sự cố. Theo đó, nên có phòng thí nghiệm an toàn bức xạ. “Không có thì không đào tạo được, không thử được. Ngoài ra, cần cả hệ thống quan trắc phóng xạ quốc gia”.
Viện NLNT có thể làm chủ đầu tư hệ thống quan trắc nhưng Cục phải nắm được phần “não” của hệ thống đó. Phần “não” này còn phải trùm lên các hệ thống khác. Vậy nên, Cục phải thành lập trung tâm điều hành, ứng phó sự cố hạt nhân cấp quốc gia. Trong trung tâm này phải có công cụ mô phỏng, huấn luyện thực địa để giả định sự cố, đào tạo”.
Cùng với đó, Cục cũng cần trang bị hệ thống đánh giá nguy cơ đa cấp, tức nhiều cấp độ khác nhau.
Chuyển đổi số toàn diện đơn vị
Bộ trưởng cũng đề nghị Cục ATBXHN phải chuyển đổi số (CĐS) toàn diện, trong đó cần hiện đại hóa hệ thống cấp phép, thúc đẩy hậu kiểm, nền tảng số, thanh tra, giám sát trực tuyến (online), cấp phép điện tử, kiểm tra trực tuyến, có bản đồ nguồn phóng xạ, công cụ AI để đánh giá rủi ro theo vùng, theo địa phương, tích hợp dữ liệu vào hạ tầng số quốc gia, đồng bộ dữ liệu và kết nối với các bộ ngành khác.
“Cục phải ý thức được chuyện cần CĐS toàn diện để quản lý lĩnh vực. Lĩnh vực sẽ ngày càng phát triển, phải CĐS mới giám sát được”.
Cục cũng cần tăng cường năng lực chuyên sâu và mạng lưới chuyên gia năng lượng hạt nhân trong nước và quốc tế để tham vấn về chuyên môn, chính sách.
Cục cần mở rộng hợp tác quốc tế (HTQT) và chủ động hội nhập, chú ý là đơn vị đầu mối tổng hợp quốc gia về HTQT trong lĩnh vực này.
Về xây dựng các tiêu chuẩn thuộc lĩnh vực, Bộ trưởng đề nghị Cục chủ động lập kế hoạch xây dựng các tiêu chuẩn và phối hợp với Ủy ban tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia (TĐC) để triển khai nhanh.
Thống nhất với ý kiến của Thứ trưởng Lê Xuân Định về việc Cục phải chủ động xây dựng các báo cáo chuyên môn, chuyên đề, Bộ trưởng cho rằng Cục ATBXHN là đơn vị đóng vai trò là cơ quan điều phối lĩnh vực cần phải có các báo cáo định kỳ gửi các Bộ, ban ngành.
Luật NLNT đã được ban hành, Bộ trưởng giao Cục cần tập trung xây dựng nghị định, thông tư, quy chuẩn kỹ thuật về thiết kế, xây dựng, vận hành,...
Cục cần nội luật hóa các hướng dẫn và an toàn. Tiếp theo là phát triển năng lực đánh giá và giám sát cấp quốc gia. Trong đó, có những việc như xây dựng bộ máy đánh giá an toàn thiết kế nhà máy điện hạt nhân, tuyển dụng và đào tạo, mời chuyên gia nước ngoài hỗ trợ; Phát triển các mô hình mô phỏng sự cố, phân tích an toàn, quản lý rủi ro, đầu tư các phần mềm chuyên dụng; Cần thiết lập phòng phân tích sự cố, trung tâm dữ liệu độc lập phục vụ giám sát, trung tâm chỉ huy ứng phó sự cố hạt nhân quốc gia có kết nối với nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, hệ thống quan trắc quốc gia, hệ thống cảnh báo đa cấp,...
Tất cả những nội dung này, Bộ trưởng đề nghị Cục học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhờ IAEA hướng dẫn. “IAEA có thể hỗ trợ việc xây dựng lộ trình, bản đồ để thực hiện nhà máy điện hạt nhân. Cục phải đề xuất và nhờ chuyên gia tư vấn thêm”.
Tiếp theo, Cục cần tăng cường truyền thông, minh bạch hóa thông tin về an toàn bức xạ; Tăng cường truyền thông về nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và lò phản ứng hạt nhân Đồng Nai; Công bố minh bạch hồ sơ an toàn, báo cáo giám sát, kết quả thanh tra.
Xây dựng một hệ sinh thái đào tạo bền vững, quốc tế hoá, chuyên nghiệp hoá
Trong thực hiện các nhiệm vụ, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý Cục chuẩn bị đủ nguồn nhân lực, mạng lưới chuyên gia về an toàn bức xạ cấp quốc gia. Xây dựng đề án về đào tạo lực lượng thanh tra, chuyên gia về điện hạt nhân, phối hợp với Viện NLNT, các đại học và tổ chức quốc tế xây dựng chương trình huấn luyện định kỳ, cấp chứng chỉ quốc tế.
Những việc Cục đang làm rồi, cần làm bài bản hơn về các nội dung chương trình huấn luận, cần bao nhiêu người, xây dựng bản đồ lực lượng nghiên cứu, khai thác, công nhân, đội ngũ an toàn là bao nhiêu người,... “Việc này cần thúc đẩy, cần một đề án chung về nhân lực hạt nhân trong cả nước, tránh việc mỗi nơi một con số”.

Về đào tạo nguồn nhân lực ATBXHN, Bộ trưởng lưu ý: “Cục phải xây dựng một hệ sinh thái đào tạo bền vững, quốc tế hoá, chuyên nghiệp hoá, đảm bảo đủ nguồn nhân lực, đủ năng lực quản lý quốc gia trong lĩnh vực điện hạt nhân, bức xạ”.
Cụ thể, đầu tiên là xây dựng lực lượng nòng cốt về kỹ thuật an toàn điện hạt nhân.
Thứ hai là phát triển nhân lực đa ngành, chú ý đến nhân lực về luật pháp như luật sư, chuyên gia kinh tế, chuyên gia chính sách hạt nhân, chuyên gia đánh giá rủi ro, chuyên gia truyền thông rủi ro.
Thứ ba, chuẩn hoá các vị trí việc làm trong nội bộ Cục, quan trọng là khung năng lực.
Thứ tư kết nối mạng lưới chuyên gia quốc tế về ATBX và điện hạt nhân, có lực lượng chuyên gia cố vấn bên ngoài Cục và cân nhắc xây dựng hội đồng chuyên gia về điện hạt nhân quốc gia để hỗ trợ các công việc như đánh giá ATBXHN; Xây dựng mạng lưới, cơ sở dữ liệu, trong đó có dùng lực lượng bên ngoài trở thành cơ quan điều phối.
Thứ năm, Việt Nam nên trở thành trung tâm của khu vực về lĩnh vực điện hạt nhân. Hợp tác với IAEA để “cầm trịnh” việc này thì trách nhiệm sẽ tăng lên, yêu cầu quốc tế lớn lên.
Thứ sáu, xây dựng chương trình về đào tạo và cấp chứng chỉ quốc gia về ATBXHN. Hiện nay, Cục đã cấp rồi thì phải đánh giá lại và cần nâng cấp.
Định hướng phát triển năng lượng nguyên tử vì mục tiêu hoà bình
Định hướng phát triển NLNT vì mục tiêu hoà bình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý Cục ATBXHN cần kiến tạo thể chế, điều phối chiến lược quốc gia cho phát triển NLNT nói chung. “Cần nêu rõ ai làm gì để phát triển, phân vai, việc cho các đơn vị liên quan, trong đó có tham mưu chính sách quốc gia về NLNT”.
Bộ trưởng đề nghị Cục xây dựng lại chiến lược NLNT quốc gia và phải lồng ghép được những tư tưởng chiến lược này vào chiến lược an ninh năng lượng quốc gia và Quy hoạch điện VIII.
Thứ hai, xây dựng hệ thống thể chế thúc đẩy ứng dụng NLNT. Quốc hội đã thông qua Luật NLNT, theo đó cần xây dựng các nghị định, thông tư để thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ hơn.
Bộ trưởng cho rằng cần tạo ra cơ chế thuận lợi cho doanh nghiệp, viện, bệnh viện ứng dụng công nghệ bức xạ, hợp pháp hoá các mô hình mới, tức là xây dựng cơ sở pháp lý, ví dụ trung tâm chiếu xạ tư nhân, sản xuất đồng vị tư nhân, thuê ngoài dịch vụ phân tích hạt nhân.
“Cần rà soát, tạo hành lang pháp lý cho tư nhân đầu tư lò phản ứng module nhỏ (SMR). Không có tư nhân không phát triển nhanh được”.
Thứ ba, phát triển và điều phối các chương trình ứng dụng quốc gia về năng lượng và đồng vị phóng xạ cho các ngành công nghiệp, y học, môi trường… Cùng với đó là các chương trình chế tạo, khai thác, đặc biệt, sắp tới là lò phản ứng hạt nhân mới ở Đồng Nai.
Thứ tư là tăng cường HTQT, tham gia các tổ chức quốc tế.
Bộ trưởng giao Cục ATBXHN xem xét hợp tác với IAEA ở cấp cao, các dự án hợp tác đa phương. Cần đẩy mạnh tham gia các tổ chức quốc tế khi hiện nay, chủ trương của Đảng và Nhà nước là đưa người Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế để ảnh hưởng đến sự phát triển quốc tế.
Theo Bộ trưởng, HTQT có hai nội dung là người Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế gồm có cán bộ của Bộ KH&CN và còn có các DN, viện, đại học ở Việt Nam tham gia.
Thứ năm, Cục cần xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn liên quan đến việc ứng dụng NLNT vì mục tiêu hoà bình, gồm hệ xây dựng năng lực kỹ thuật, tài chính, nhân lực để hỗ trợ phát triển NLNT, hệ thống phòng thí nghiệm quốc gia.
Thứ sáu, chuẩn hoá các chương trình đào tạo liên quan đến ứng dụng năng lượng hạt nhân.
Thứ bảy, tăng cường truyền thông, tổ chức diễn đàn, truyền thông trên báo, tạp chí, cổng thông tin và một số đài truyền hình cấp quốc gia.

Sứ mệnh mới
Nhấn mạnh mang tính tổng kết, Bộ trưởng đề nghị Cục ATBXHN nhận thức xu thế mới của lĩnh vực, thúc đẩy đơn vị đổi mới, trong đó có chương trình phát triển nhà máy điện hạt nhân, đào tạo nhân lực ATBXHN và nghiên cứu ứng dụng.
“Cục ATBXHN phải nhận thức sứ mệnh mới, tương lai mới khi lĩnh vực có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN. Giờ là lúc Cục cần tiến lên”.
Bộ trưởng lưu ý trong tiến lên có nhiều việc. “Cần nghĩ ra cách làm dễ đi, ví dụ như CĐS thì không đầu tư hệ thống CNTT nữa mà làm dịch vụ (service) sẽ dễ hơn. Thay vì làm tất thì làm vai thống lĩnh quốc gia. Dùng trợ lý ảo cho công việc nhẹ đi. Nghĩ cách làm dễ để “chạy việc” hơn. Nhiều việc không nghĩ ra cách làm thì sẽ sợ hãi”.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh Cục ATBXHN nhiều việc thì cần bàn bạc, tìm cách tiếp cận mới rồi mới bắt tay làm. Như vậy, làm việc sẽ nhanh hơn, có nhiều thời gian hơn. Hôm nay đã trao đổi có 3 cách làm là: Tương tác nhiều hơn, trao đổi với nhiều người hơn và theo đó có nhiều thời gian hơn. Thứ hai là có niềm tin là khi việc “căng” một chút thì đầu óc thông minh hơn.
“Con người chỉ tiếp cận theo cách mới khi rơi vào khó khăn. Chỉ khi nào bị những việc rất đặc biệt thì mới nghĩ cách làm mới, năng lực đặc biệt. Nhiều khi có cách tiếp cận mới thì năng suất lao động tăng lên. Mong Cục chú ý việc này”.
Cuối cùng, Bộ trưởng nhấn mạnh Cục ATBXHN cần chú ý làm đến kết quả cuối cùng. Đất nước đang kỳ vọng vào ngành KH&CN, năng lượng hạt nhân, NLNT, bức xạ hạt nhân. Cục ATBXHN, Viện NLNT là các đơn vị trọng tâm của lĩnh vực này, nên Cục ATBXHN phải cố gắng và làm. “Mong các cán bộ của Cục cảm nhận được hạnh phúc của đi làm, sáng muốn đến cơ quan, chiều muốn về nhà”./.