Truyền thông

Để lụa Việt chinh phục thị trường quốc tế

P.V 27/11/2023 09:37

Hiện nay, sản phẩm tơ, lụa của Việt Nam đã xâm nhập được vào những thị trường khó tính bậc nhất trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc. Tuy nhiên, chuỗi giá trị dâu - tằm - tơ - lụa đang cần tập trung chuẩn hóa giống tằm, tạo giống dâu tốt, phát triển diện tích trồng dâu nuôi tằm, đến kỹ nghệ dệt lụa, đa dạng chủng loại, mẫu mã, quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu cho lụa Việt…

Phát triển chưa tương xứng tiềm năng

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay, cả nước có gần 40.000 hộ nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Diện tích trồng dâu năm 2023 khoảng 13.200ha, sản lượng kén đạt hơn 16.800 tấn/năm, sản lượng tơ đạt khoảng 2.000 tấn/năm. Việt Nam hiện đứng thứ ba trên thế giới về sản lượng tơ, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Giá trị xuất khẩu tơ lụa năm 2022 đạt 70 triệu USD. Phần lớn tơ thô của Việt Nam được xuất khẩu sang Ấn Độ, chiếm tỷ trọng hơn 90%.

Trồng dâu, nuôi tằm hiện được phát triển ở 36 tỉnh/thành, nhưng tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đắk Nông. 3 tỉnh Tây Nguyên này chiếm gần 75% tổng diện tích trồng dâu trên cả nước.

Hiện nay, sản phẩm tơ, lụa đang được tiêu thụ bởi những thị trường lớn như Ấn Độ, Bangladesh, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Pháp, Thái Lan, Lào, Campuchia, Ý, Pháp..., thậm chí có cả những thị trường khó tính bậc nhất trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc.

“Tơ của Bảo Lộc có chất lượng tốt, cạnh tranh về giá nên thị trường thế giới rất ưa chuộng. Công ty chúng tôi hiện đang xuất khẩu 80% tơ qua thị trường Ấn Độ, 20% qua Nhật Bản. Phần phế liệu như thảm, gốc rũ, nhộng thì được tiêu thụ bởi thị trường Trung Quốc”, Bà Hồ Thị Giáng, Giám đốc Công ty Tơ lụa Minh Thành (Lâm Đồng) cho biết.

Tuy nhiên, do chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ Trung Quốc dẫn đến ngành chăn nuôi tằm phát triển thiếu bền vững.

images1550956_tnb_99.jpg
Sản phẩm tơ, lụa của tỉnh đang được tiêu thụ bởi những thị trường lớn như Ấn Độ, Bangladesh, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Pháp, Thái Lan...

Nhận xét về ngành dâu tằm tơ, ông Nguyễn Doãn Hùng, Trưởng phòng Khuyến nông trồng trọt và lâm nghiệp của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, cho rằng ngành dâu tằm tơ Việt Nam vẫn bị “rối” suốt nhiều năm qua, đang gặp nhiều trở ngại cả về sản xuất và thị trường. “Nước ta chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài. Các giống tằm trong nước đã cải thiện chất lượng tơ nhưng chỉ chiếm một thị phần nhỏ”, ông Nguyễn Doãn Hùng thông tin.
Nghề trồng dâu nuôi tằm vẫn chủ yếu tự phát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Trình độ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác, phòng trừ dịch bệnh còn thấp. Việc nuôi tằm vẫn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, biến đổi khí hậu, sâu bệnh hại… khiến sản lượng kén thực tế thấp hơn nhiều so với năng suất tiềm năng.

Hiện chưa có một quy hoạch tổng thể và chương trình phát triển dài hạn để hình thành các vùng nguyên liệu gắn với tổ chức sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm. Nhiều khâu trong sản xuất dựa vào thủ công. Trong khi đó, mối liên kết giữa người sản xuất và người mua kén không chặt chẽ, thiếu tính bền vững. Điều này dẫn đến việc ngành dâu tằm tơ chủ yếu sản xuất kén, chế biến tơ thô để xuất khẩu nguyên liệu.

Theo nhận định của một số chuyên gia, ngành dâu tằm tơ lụa của Việt Nam đang bị tụt hậu quá xa so với Trung Quốc. Dù sản phẩm nhiều làng nghề lụa ở nước ta vẫn giữ được chất lượng sản phẩm truyền thống cổ xưa, nhưng áo lụa chỉ thích hợp với việc giặt bằng tay, không sử dụng xà phòng. Nay, lụa Trung Quốc đã có nhiều cải tiến về công nghệ, có thể cho phép giặt bằng máy mà không bị nhăn nhúm.

Các giống tằm thế hệ mới của Trung Quốc cho tơ màu trắng, nên không cần qua công đoạn tẩy, giúp cho lụa đạt chất lượng tốt hơn. Giống tằm thế hệ mới của Trung Quốc cũng cho sợi kén dài hơn, không bị đứt mảnh, năng suất tơ cao hơn nhiều nên Việt Nam đang ngày càng khó cạnh tranh trong lĩnh vực này nếu không có chiến lược phát triển dài hơi hơn.

Hiện đại hóa công nghiệp ươm tơ, dệt lụa

Để ngành dâu tằm tơ không bị lụt lại, không đi vào “vết xe đổ” như đã từng xảy ra, nước ta cần thực hiện nhiều giải pháp. Trong đó căn cơ nhất vẫn là phải chủ động được nguồn trứng giống tằm, đặc biệt là trứng giống tằm lưỡng hệ chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu nuôi.

bai-5-de-nganh-to-lua-vuon-xa-152723_490.jpg
Việt Nam cần phải chủ động được nguồn trứng giống tằm.

Xác định nghề dâu tằm tơ là lợi thế lớn, mang lại giá trị kinh tế cao nên những năm qua, tỉnh Lâm Đồng đã tập trung xây dựng vùng nguyên liệu, thu hút đầu tư vào lĩnh vực dâu tằm tơ và chuyển đổi sản xuất để tăng cao năng suất, sản lượng, giá trị.

Hiện nay, tỉnh Lâm Đồng đã và đang tổ chức bố trí, sắp xếp cơ cấu cây trồng một cách hợp lý, phù hợp với tiềm năng thế mạnh. Tỉnh định hướng phát triển, nâng quy mô diện tích dâu lên 12.000ha vào năm 2025, trong đó diện tích sử dụng giống dâu mới, dâu lai đạt 9.000 - 10.000ha, diện tích trồng dâu ứng dụng công nghệ cao đạt 2.200 - 2.500ha và nâng sản lượng lá dâu đạt 240.000 - 250.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu trứng giống tằm khoảng 450.000 hộp/năm.

Tỉnh cũng tăng cường công tác nghiên cứu, sản xuất trứng giống, từng bước chủ động nguồn giống do trong nước sản xuất đáp ứng nhu cầu nuôi tằm của địa phương.

TS. Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương cho biết, hiện Trung tâm đã nghiên cứu ra giống dâu GQ2 được trồng phổ biến tại miền Bắc và miền Trung, năng suất trung bình đạt trên 35 tấn lá/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt năng suất 40 - 45 tấn/ha. Với vùng Tây Nguyên, 2 giống dâu S7-CB và VA-201 được trồng phổ biến, bà con nông dân quen gọi là giống siêu lá và giống siêu cành.

Để phát triển ngành trồng dâu - nuôi tằm cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân có đủ điều kiện tham gia vào nghiên cứu, sản xuất giống dâu và tằm; thực hiện các cơ chế chính sách về đất đai để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, sơ chế, chế biến; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu trứng giống tằm tiếp cận các nguồn vốn vay và chính sách ưu đãi về thuế.

Bài liên quan
  • Linh hoạt các giải pháp để chủ động nguồn nguyên liệu cho ngành Dệt may
    Hiên nay, để các doanh nghiệp có thể tự chủ được nguồn cung nguyên phụ liệu dệt may trong nước đang trông chờ vào nguồn vốn lớn cùng cơ chế vay vốn thông thoáng nhằm thu hút đầu tư. Vì vậy, việc cần có thêm những chính sách đủ mạnh, thực sự hiệu quả để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá hàng dệt may xuất khẩu trở thành yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn này.
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Để lụa Việt chinh phục thị trường quốc tế
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO