Đóng góp của đội ngũ nhà khoa học Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước
Đội ngũ các nhà khoa học, người lao động ngành Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam bằng trí tuệ, tâm huyết, lòng yêu nước với tố chất con người Việt Nam và đặc biệt kế tục truyền thống tốt đẹp các nhà khoa học đàn anh đi trước đã sẵn sàng bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng và giàu mạnh của dân tộc. Được tôn trọng, tin tưởng, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, người lao động KH&CN Việt Nam sẽ hoàn thành sứ mệnh cao cả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam trân trọng trích dẫn phát biểu của TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tại Lễ khai trương “Trưng bày đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc” diễn ra mới đây.

Những dấu mốc quan trọng của nền KH&CN Việt Nam
Cách mạng Tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một trang sử hào hùng, oanh liệt mới của Đất nước ta, Dân tộc ta được bắt đầu. Thế hệ thứ nhất đội ngũ các nhà khoa học của nước Việt Nam mới đã được hình thành từ trước năm 1945.
Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp đã tạo dựng ở Việt Nam nền tảng cho nhiều lĩnh vực như địa chính, khai thác mỏ, nông nghiệp, y học, sử học, khảo cổ học…
Viện Pasteur Sài Gòn (nay là Viện Pasteur TP.HCM) - chi nhánh đầu tiên của Viện Pasteur Paris được thành lập vào tháng 4/1891 là đơn vị tiên phong của Hệ thống các viện Pasteur Đông Dương. Từ đó, các viện Pasteur tiếp theo được thành lập ở Nha Trang (tháng 8/1895), ở thành phố Hà Nội (năm 1926).

Bên cạnh các viện Pasteur Đông Dương là việc thành lập Trường Y Đông Dương vào năm 1902, là tiền đề để người Pháp lập Viện Đại học Đông Dương vừa có chức năng đào tạo và nghiên cứu. Sau đó ra đời các trường Cao đẳng Luật và Pháp chính, Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Y khoa, Cao đẳng Xây dựng dân dụng và Cao đẳng Văn chương. Đó là nền tẳng đầu tiên cho KH&CN nước nhà.
Nền KH&CN Việt Nam giai đoạn năm 1945 - 1959
Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW Đảng đã cử một đoàn cán bộ gồm 21 người đi Liên Xô học tập ở nhiều lĩnh vực; trong đó, có nhiều người đã từng tốt nghiệp đại học ở nhiều quốc gia, được đào tạo lại, đào tạo tiếp ở Liên Xô và đã trở thành những nhân vật chủ chốt ở các lĩnh vực khoa học sau này. Có thể coi đây là thời kỳ bắt đầu của khoa học Việt Nam hiện đại.
Ngày 29/4/1958, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá I, Quốc hội đã quyết nghị thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) để giúp Chính phủ xây dựng và phát triển khoa học và kỹ thuật (KH&KT). Ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã cử Ban trù bị do GS. Tạ Quang Bửu làm Trưởng ban để xúc tiến việc thành lập UBKHNN. Điều đó thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới vai trò KH&KT của Bác, của Đảng và Quốc hội.
Chưa đầy một năm sau, ngày 4/3/1959, Chủ tịch Nước ủy quyền Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Sắc lệnh số 016-SL thành lập UBKHNN thuộc Hội đồng Chính phủ có quyền hạn, trách nhiệm ngang một Bộ; là tiền thân của Bộ KH&CN ngày nay. Điều đó cho thấy, chỉ sau 15 năm thành lập nước (1945-1959), Việt Nam đã có được một đội ngũ các nhà khoa học; đã được kế thừa hoặc cử đi đào tạo ở nước ngoài như Pháp, Nga, Trung Quốc…
Chức vụ Chủ nhiệm Uỷ ban do các Phó Thủ tướng Chính phủ lần lượt đảm nhiệm: đồng chí Trường Chinh (12/1958 - 7/1960), đồng chí Võ Nguyên Giáp (7/1960 - 1/1963), đồng chí Nguyễn Duy Trinh (1/1963 - 10/1965). Cơ quan lãnh đạo của UBKHNN gồm 21 thành viên, là cán bộ lãnh đạo các cơ quan cấp trung ương kiêm nhiệm. Điều hành công việc hằng ngày là ông Tạ Quang Bửu, Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký.
KH&CN giai đoạn từ năm 1965 - 1975
Từ năm 1965, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo tăng cường công tác KH&KT nhằm phục vụ sản xuất, chiến đấu, bảo đảm đời sống trước mắt của nhân dân và chuẩn bị phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH với quy mô lớn, trình độ cao sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thời kỳ đó đất nước trong điều kiện chiến tranh, cực kỳ khó khăn nhưng Bác và Trung ương Đảng vẫn tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi ngày mai, hàng năm vẫn gửi các cháu học sinh xuất sắc đi học và đào tạo cho ngày mai tại các nước XHCN.
Ngày 11/10/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Quyết định số 165 NQ/TVQH về việc chia UBKHNN thành 2 cơ quan: Uỷ ban KH&KT Nhà nước và Viện Khoa học xã hội Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, phát triển cả khoa học tự nhiên - kỹ thuật và khoa học xã hội - nhân văn. Chủ nhiệm Ủy ban suốt thời kỳ này do GS.VS Trần Đại Nghĩa - Chủ nhiệm Uỷ ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước kiêm nhiệm.
KH&CN sau thống nhất đất nước từ năm 1975
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào giai đoạn lịch sử mới “cả nước độc lập thống nhất và làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng XHCN”. Tư tưởng chủ đạo của Đảng giai đoạn này là tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng KH&KT là then chốt. Trước yêu cầu về phát triển KH&KT, Hội đồng Chính phủ đã quyết định tách khối nghiên cứu ra khỏi Ủy ban KH&KT Nhà nước để thành lập Viện Khoa học Việt Nam.
Chủ nhiệm Ủy ban KH&KT Nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng Chính phủ về mọi hoạt động của Ủy ban.
KH&CN trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986
Giai đoạn 1986 - 1992 là thời kỳ chuyển nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Với chủ trương mới này đã tác động lớn tới việc đổi mới cơ chế quản lý KH&KT; khuyến khích việc sáng tạo và ứng dụng các thành tựu KH&KT.
Giai đoạn 1993 - 2002 là giai đoạn đất nước tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, hoạt động nhập khẩu và chuyển giao công nghệ ngày càng phổ biến, vấn đề bảo vệ môi trường trở thành cấp thiết. Vì vậy, ngày 30/9/1992, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX đã ban hành Nghị quyết thành lập Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Giai đoạn 2003 - 2025: Tháng 8/2002 tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI đã đổi tên Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành Bộ KH&CN trên cơ sở điều chỉnh một số chức năng, nhiệm vụ của Bộ và hình thành Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Nghị định số 95/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN và Nghị định số 28/2023/NĐ-CP ngày 02/6/2023 của Chính phủ đã bổ sung thêm cho Bộ KH&CN chức năng quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo.
Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam ra đời
Bên cạnh hệ thống các tổ chức KH&CN của nhà nước, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển KH&CN nhằm đóng góp đắc lực hơn cho công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong bối cảnh đó, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 121 BT ngày 29/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Khi mới thành lập, mới chỉ có 15 hội thành viên; đến tháng 05/2025 có 156 hội thành viên, gồm 63 (sau sát nhập còn 34) Liên hiệp hội địa phương và 93 hội ngành toàn quốc; thành lập 570 tổ chức KH&CN. Đã tập hợp được 3,7 triệu hội viên, trong đó có 2,2 triệu trí thức KH&CN, chiếm 32,5% trí thức của cả nước.
Sự đóng góp của KH&CN, của các nhà khoa học
Cách mạng tháng 8 thành công chưa được bao lâu, thì từ ngày 19/12/1946, nước Việt Nam non trẻ bước vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn của cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong giai đoạn này, Việt Nam có nhiều nhà khoa học, trí thức đóng góp quan trọng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, phát triển y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác. Nhiều nhà khoa học Việt Nam thế hệ đầu như các giáo sư Nguyễn Văn Chiển (địa chất), Nguyễn Xiển (khí tượng), Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Hoàng Tích Trí, Hoàng Tích Mịch, Hồ Đắc Di (y học), Bùi Huy Đáp (nông nghiệp), Ngụy Như Kon Tum (vật lý)… đã có những đóng góp vô cùng to lớn, hiệu quả rất đáng trân trọng.
Nhiều nhà khoa học thời kỳ đó đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 như Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Hoàng Tích Mịch… (y học), Trần Huy Liệu (lịch sử), Đặng Thai Mai (văn học), Tạ Quang Bửu (khoa học tự nhiên), Nguyễn Xiển (khí tượng), Đào Văn Tiến (động vật học), Bùi Huy Đáp (nông nghiệp); Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn…
Lĩnh vực khoa học kỹ thuật: Các công trình sản xuất vũ khí, giúp bộ đội chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp của GS.VS. Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa với cụm công trình nghiên cứu và chế tạo vũ khí (Bazooka, súng không giật, đạn bay). Kỹ sư Nguyễn Đông Hợi có nhiều đóng góp trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình phục vụ kháng chiến. Nhà toán học GS. Tạ Quang Bửu có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực quân sự, đặc biệt là trong việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí. GS. Lê Văn Thiêm, có nhiều công trình nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực toán học và giáo dục…
Lĩnh vực y học: GS. Tôn Thất Tùng nổi tiếng với kỹ thuật cắt gan khô, đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ y bác sĩ và xây dựng ngành y tế trong kháng chiến. GS. Đặng Văn Ngữ bác sĩ nổi tiếng, có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh sốt rét và các bệnh truyền nhiễm; đã hy sinh trên chiến trường khi đang nghiên cứu về thuốc trừ sâu, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cho bộ đội và nhân dân. GS. Đặng Văn Chung, bác sĩ có nhiều công trình nghiên cứu về tim mạch và huyết học...
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Lĩnh vực kỹ thuật có các công trình như A12, DKB nối tầng, các loại vũ khí rà phá thủy lôi trên biển do Mỹ phong toả Vịnh Bắc bộ, năm 1960 - 1972 của Viện Kỹ thuật Quân sự và Đại học Bách khoa Hà Nội, chủ trì là GS.TSKH Vũ Đình Cự; GS. Tạ Quang Bửu đã chỉ đạo các nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng với Tập hợp các công trình KH&KT.
Về lĩnh vực Y học: Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch với cụm công trình về phòng, chống bệnh lao ở Việt Nam và xây dựng mạng lưới y tế cơ sở; GS. Tôn Thất Tùng với công trình Phương pháp cắt gan khô (1962); GS. Đỗ Xuân Hợp với công trình Giải phẫu mô tả và Nhân trắc học người Việt Nam (1950 - 1971); GS. Đặng Văn Ngữ với công trình Điều tra về muỗi sốt rét ở Việt Nam và Chế dung dịch Penicillin sử dụng chữa vết thương trong kháng chiến chống Pháp (1958); GS, Nhà giáo Nhân dân Trương Công Quyền với cụm tác phẩm Dược điển Việt Nam; GS.TS Đỗ Tất Lợi với tác phẩm Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam…
Về lĩnh vực Nông nghiệp: Cụm công trình của GS. Bác sĩ nông học Lương Định Của: Chọn tạo giống lúa chiêm xuân và hè thu năng xuất cao mở đầu phong trào thâm canh hạt 5 tấn lúa/ha ở miền Bắc Việt Nam năm 1955 - 1974;…
Từ năm 1975 đến nay, KH&CN phục vụ cho Kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH đã có những tiến bộ vượt bậc
Về khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hoá Việt Nam.
Về khoa học tự nhiên đã nghiên cứu, tạo cơ sở hình thành một số lĩnh vực KH&CN, đóng góp hiệu quả vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới.

Có thể kể đến: Cụm công trình Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa thơm Sóc Trăng: ST24 và ST25 giai đoạn 2008 - 2016 của Kỹ sư Hồ Quang Cua và các cộng sự thực hiện; các công trình Nghiên cứu thiết kế chi tiết và ứng dụng công nghệ để chế tạo, lắp ráp và hạ thủy giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam; Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế, thi công, lắp đặt các công trình dầu khí biển siêu trường, siêu trọng; Công trình xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nông thôn, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu của Kỹ sư Hoàng Đức Thảo…
Có nhiều trí thức, nhà khoa học đóng góp không chỉ cho đất nước mà còn cho thế giới đã làm rạng danh trí thức Việt Nam, nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Ví dụ: tháng 2/2024, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập, Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã vinh danh 6 nhà khoa học Việt Nam là: GS.VS, Thiếu tướng, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, GS. Nguyễn Khánh Toàn, GS.TSKH Nguyễn Văn Hiệu, GS.TSKH Trần Đình Long, GS.TSKH Đặng Vũ Minh và GS. Nguyễn Duy Quý.
Nhiều doanh nhân cũng là nhà sáng chế, nhà khoa học, như: AHLĐ Trần Mạnh Báo (Tập đoàn Thái bình Seed); AHLĐ Nguyễn Quang Mâu (Chủ tịch tập đoàn Gốm Đất Việt); AHLĐ Nguyễn Như So - Chủ tịch Tập đoàn Dabaco; AHLĐ Hoàng Đức Thảo - Chủ tịch Tập đoàn Busadco; AHLĐ Giải thưởng Hồ Chí Minh GS.TS Nguyễn Anh Trí, Chủ tịch Hội đồng chuyên môn Bệnh viện MEDLATEC…Các công trình của họ tạo nên thương hiệu giúp doanh nghiệp, tổ chức của mình và đất nước cùng phát triển.
Đội ngũ nhà khoa học, trí thức KH&CN Việt Nam đã đồng hành cùng đất nước và dân tộc theo suốt chiều dài lịch sử; đã góp phần to lớn rất đáng trân trọng và tự hào vào công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tái thiết đất nước sau thống nhất; đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trí thức, nhà khoa học Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức to lớn để phục vụ đất nước trong bối cảnh và xu thế phát triển phải dựa và bằng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Đội ngũ các nhà khoa học, người lao động ngành KH&CN Việt Nam bằng trí tuệ, tâm huyết, lòng yêu nước với tố chất con người Việt Nam và đặc biệt kế tục truyền thống tốt đẹp các nhà khoa học đàn anh đi trước đã sẵn sàng bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng và giàu mạnh của dân tộc. Được tôn trọng, tin tưởng, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, người lao động KH&CN Việt Nam sẽ hoàn thành sứ mệnh cao cả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó./.