Trong khi những nền tảng điện toán đám mây thế hệ đầu tiên được phát triển dựa trên công nghệ cũ từ cả thập kỷ trước, Nền tảng Đám mây thế hệ thứ 2 của Oracle được phát triển nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý những phần việc thách thức nhất theo một cách an toàn.
Nền tảng Đám mây của Oracle mang đến khả năng bảo mật, hiệu suất và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, Nền tảng Đám mây thế hệ thứ 2 của Oracle là nền tảng được phát triển để vận hành Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle (Oracle Autonomous Database), cơ sở dữ liệu tự động đầu tiên và duy nhất trong ngành.
Cơ sở Hạ tầng trên Nền tảng Đám mây của Oracle (Oracle Cloud Infrastructure) được thiết kế để xử lý công việc của doanh nghiệp một cách an toàn. Giải pháp Hạ tầng như một dịch vụ (IaaS) của Oracle cung cấp hỗ trợ riêng cho Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle.
Một trong những chủ đề được Ellison tập trung phân tích là thực trạng của vấn đề phòng thủ mạng, điều mà ông đánh giá là “không đủ tốt”. Để giải quyết vấn đề tối quan trọng này, ông đã ra mắt các dịch vụ bảo mật Cơ sở Hạ tầng trên Nền tảng Đám mây của Oracle với khả năng tự động hóa, phát hiện và dự báo cao nhằm giảm thiểu và khắc phục các mối đe dọa.
Ellison đã lấy ví dụ về cách Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle quét tìm các mối đe dọa về bảo mật và áp dụng những nâng cấp về bảo mật trong khi vận hành, giúp ngăn chặn các cuộc tấn công mạng và trộm cắp dữ liệu. Bên cạnh đó, Ellison cũng dành thời gian bàn về Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle, cơ sở dữ liệu phổ biến và được trang bị công nghệ mới trên thế giới.
Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle quản lý, chỉnh sửa và tự vá lỗi, trao cho người dùng khả năng cải tiến nhanh hơn trên nền tảng bảo mật cao với chi phí hợp lý khi chỉ cần trả tiền cho những gì họ sử dụng. Mở rộng các tính năng trong Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle, Ellison giới thiệu trước một số tùy chọn triển khai mới, bao gồm Hạ tầng đám mây Exadata chuyên dụng (Dedicated Exadata Cloud Infrastructure) và Nền tảng đám mây dành cho Khách hàng (Cloud at Customer). Khách hàng có thể quyết định triển khai Cơ sở Dữ liệu Tự động của họ trên Hạ tầng đám mây Exadata chuyên dụng để tách biệt tải trọng công việc nhằm đảm bảo an ninh, đem lại độ tin cậy cho các khối lượng công việc quan trọng.
Ellison cũng chia sẻ thêm rằng, kết quả kiểm tra chỉ số trong các mô phỏng ngắn đã thể hiện khoảng cách lớn về hiệu suất giữa Oracle và Amazon. Trong đó, họ so sánh Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle với các dịch vụ chính từ Amazon: Cơ sở Dữ liệu của Oracle chạy trên Dịch vụ Cơ sở Dữ liệu Quan hệ của Amazon (Amazon Relational Database Service - RDS), Amazon Aurora và Amazon Redshift. Các so sánh trực tiếp cũng chỉ ra rằng Cơ sở Dữ liệu Tự động của Oracle có thể tiếp tục vận hành mà không gặp phải gián đoạn trong quá trình cập nhật cơ sở dữ liệu - tương đương với chỉ số thỏa thuận mức dịch vụ (SLA) tới 99.995%. Đây là một điểm khác biệt rõ rệt so với chỉ số tương ứng của các dịch vụ đến từ Amazon - 99.95%, trong đó đã loại trừ hầu hết các nguồn gián đoạn định trước và không định trước.
Tuấn Trần