Chính sách và chiến lược

Luật Giao dịch điện tử 2023 - nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số

Hoàng Linh 01/08/2023 17:45

Luật Giao dịch điện tử (GDĐT) năm 2023 đã được Quốc hội khóa XV thông qua với tỷ lệ 94,74% tán thành, có nhiều chính sách mới nổi bật giúp công nhận GDĐT sẽ có giá trị tương đương và có thể sử dụng thay thế giao dịch truyền thống. Có thể coi Luật này là Luật cơ bản về chuyển đổi số (CĐS), nền tảng cho phát triển kinh tế số.

quoc-hoi-thong-qua-luat-gddt-2023_1.jpeg
Luật GDĐT (sửa đổi) được thông qua với 468/477 phiếu tán thành (tương đương 94,74% tổng số đại biểu Quốc hội)

Sáu chính sách nổi bật của Luật GDĐT

Kết quả tổng kết thực tiễn 17 năm thực hiện Luật GDĐT năm 2005 cho thấy bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc thúc đẩy phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, Luật GDĐT năm 2005 tồn tại một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung.

Do đó, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế Luật GDĐT năm 2005 là cần thiết để tạo một hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực.

Việc chuyển đổi cũng nhằm chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và công cuộc chuyển đổi số (CĐS) quốc gia; khắc phục những vướng mắc, bất cập của Luật GDĐT năm 2005; khẳng định giá trị pháp lý cho GDĐT, công nhận GDĐT có giá trị pháp lý giống như giao dịch trong môi trường thực; ưu tiên, khuyến khích thực hiện GDĐT bằng các chính sách giúp thực hiện GDĐT với thời gian nhanh hơn, chi phí thấp hơn, tiếp cận dễ dàng hơn, được bảo đảm an toàn, tin cậy hơn.

Với quan điểm kế thừa, phát huy các quy định tại Luật GDĐT năm 2005 hiện còn giá trị, chỉ quy định về những thành tố cơ bản có giá trị pháp lý sử dụng để thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử. Đồng thời, Luật GDĐT (sửa đổi) năm 2023 không quy định về nội dung, điều kiện, hình thức của giao dịch, không làm thay đổi trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành trong lĩnh vực và nhằm khuyến khích, thúc đẩy phát triển GDĐT toàn diện, toàn trình (nghĩa là thực hiện trọn vẹn từ đầu đến cuối quy trình bằng phương tiện điện tử). Luật GDĐT năm 2023 được kỳ vọng sẽ tạo hành lang thông thoáng hơn cho các giao dịch trên môi trường số, mang lại hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp (DN).

quoc-hoi-thong-qua-luat-gddt-2023_2.jpeg
Các đại biểu Quốc hội đã thông qua Luật GDĐT (sửa đổi) với kết quả 468/477 đại biểu tán thành

Cụ thể, Luật GDĐT (sửa đổi) vừa được thông qua gồm 8 chương, 53 điều; có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Với những chương, điều cụ thể trên về Luật GDĐT 2023, theo Bộ TT&TT, cơ quan chủ trì soạn thảo luật cho biết Luật có 6 chính sách nổi bật:

1 - Giao dịch trên môi trường số

Trước đây, giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử chưa được quy định thì nay được áp dụng theo quy định của Luật GDĐT. Đặc biệt, các GDĐT có giá trị tương đương và có thể sử dụng thay thế giao dịch truyền thống. Hơn nữa, các cơ quan, tổ chức không thể viện dẫn việc chưa có quy định để từ chối giá trị pháp lý của GDĐT.

2 - GDĐT toàn trình

Luật GDĐT (sửa đổi) giúp tối ưu hóa, rút ngắn thời gian xử lý, thuận tiện hơn và có thể sử dụng thay thế giao dịch truyền thống. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để khắc phục tình trạng GDĐT phức tạp hơn, lâu hơn, đắt đỏ hơn và vẫn phải thực hiện song song cả 2 hình thức, làm chậm tiến trình CĐS. Hơn nữa, các quy định về chuyển đổi giữa giấy và điện tử sẽ được thông suốt, không rào cản. Cùng với đó, các dịch vụ tin cậy lần đầu tiên đưa vào Luật sẽ luôn đóng vai trò tạo niềm tin thúc đẩy GDĐT.

Chứng thư điện tử lần đầu tiên đưa vào Luật để đại diện chung cho tất cả các loại giấy phép, văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận... giúp giải quyết điểm vướng mắc lớn nhất trong dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) toàn trình đó là kết quả giải quyết TTHC bằng điện tử.

3 - Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc khi thực hiện HĐĐT

Đây là cơ sở pháp lý để Bộ trưởng các bộ có thể ban hành theo thẩm quyền quy định về HĐĐT trong ngành, lĩnh vực của mình. Ví dụ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) có thể ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng lao động điện tử, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) có thể ban hành hoặc cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định về hợp đồng du lịch điện tử v.v....

4 - Luật hóa vai trò của các nền tảng số quốc gia

Luật GDĐT là công cụ điều phối quan trọng của Bộ TT&TT là Nền tảng NDXP, Khung kiến trúc. Trước đây, chúng ta chưa có cơ sở pháp lý gì cho hoạt động này.

5 - Thúc đẩy hiệu quả nhiệm vụ CĐS

Luật cho phép các cơ quan nhà nước (CQNN) được thuê chuyên gia từ ngân sách nhà nước hàng năm (kinh phí sự nghiệp); thuê tư vấn xây dựng cơ sở dữ liệu; thực hiện các hoạt động chuyên môn kỹ thuật về quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin (HTTT) phục vụ GDĐT của CQNN.

Với những quy định này, ưu điểm tạo ra khi áp dụng luật sẽ bước đầu tháo gỡ khó khăn về việc sử dụng kinh phí sự nghiệp cho công tác duy trì, vận hành HTTT.

6 - Sửa đổi quy định về việc chia sẻ dữ liệu, giám sát, kiểm tra, thanh tra trực tuyến

Đây là văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý nhà nước (QLNN) sử dụng dữ liệu lớn thay vì QLNN theo cách truyền thống. Đặc biệt, đây cũng là một nội dung quan trọng trong công tác chia sẻ dữ liệu, giám sát các HTTT phục vụ GDĐT. Quan trọng hơn, luật còn được coi là đạo luật cơ bản về CĐS và việc thực thi Luật này sẽ tạo cơ sở thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu, đề xuất Luật CĐS ở giai đoạn sau. Đặc biệt, luật sửa đổi lần này cũng tạo thị trường mới cho DN công nghệ số phát triển.

Khơi thông điểm nghẽn và tạo thuận lợi cho CĐS

Trao đổi thêm về Luật GDĐT (sửa đổi) mới, bà Tô Thị Thu Hương, Giám đốc Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NEAC) - Bộ TT&TT cho biết Luật đã quy định việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, không quy định nội dung, điều kiện, hình thức của giao dịch. Luật đã bỏ các đối tượng bị hạn chế, loại trừ trong Luật GDĐT năm 2005 để mở ra việc áp dụng GDĐT cho tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội.

“Một luật nhưng giúp nhiều luật hiện nay có ngay hiệu lực thi hành trên môi trường số. Luật nào trước đây chưa quy định giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử thì được áp dụng theo quy định của Luật GDĐT. GDĐT có giá trị tương đương và có thể sử dụng thay thế giao dịch truyền thống. Đặc biệt, các cơ quan, tổ chức không thể viện dẫn việc chưa có quy định để từ chối giá trị pháp lý của GDĐT”, Giám đốc NEAC nhấn mạnh.

Trong quá trình xây dựng Luật GDĐT (sửa đổi) có một cụm từ rất độc đáo và đặc biệt đã được Bộ TT&TT đưa ra đó là “những thành tố cơ bản”. Luật quy định về giá trị pháp lý của những thành tố cơ bản phục vụ GDĐT.

Theo Giám đốc NEAC, “những thành tố cơ bản” là cụm từ được Bộ TT&TT sử dụng xuyên suốt trong quá trình xây dựng Luật để thuyết phục Chính phủ, Quốc hội cũng như các bộ, ngành liên quan, trong bối cảnh Luật GDĐT khi ban hành quy định sẽ ảnh hưởng và bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của các bộ, ngành khác. Chính vì vậy, với cụm từ “thành tố cơ bản”, Luật chỉ quy định về những “thành tố cơ bản”, đảm bảo giá trị những “thành tố cơ bản” phục vụ cho GDĐT.

Chúng ta có thể hình dung đơn giản như sau, những gì trong môi trường thực khi đưa lên môi trường điện tử nó sẽ là phiên bản điện tử. Chẳng hạn như, chữ viết, hình ảnh, âm thanh khi đưa lên môi trường điện tử sẽ là các thông điệp dữ liệu; chữ ký tay, con dấu khi GDĐT sẽ là chữ ký số (CKS), chữ ký điện tử (CKĐT) chuyên dùng đảm bảo an toàn; hợp đồng giấy thì sẽ là HĐĐT; thẻ khách hàng sẽ là tài khoản GDĐT...

Lần đầu tiên cụm từ “toàn trình” cũng được đưa vào Luật để thể hiện mức độ GDĐT từ đầu tới cuối. GDĐT toàn trình giúp tối ưu hóa, rút ngắn thời gian xử lý, thuận tiện hơn, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để khắc phục tình trạng GDĐT phức tạp, lâu hơn, đắt đỏ hơn và hiện nay vẫn tồn tại song song cả 2 hình thức (giấy và điện tử), làm chậm tiến trình CĐS.

Ngoài ra, trong Luật cũng quy định việc chuyển đổi giữa văn bản giấy và điện tử thông suốt, không rào cản; cũng như các quy định an toàn cho việc chuyển đổi này.

Đặc biệt, dịch vụ tin cậy lần đầu tiên đưa vào Luật để tạo niềm tin thúc đẩy GDĐT. Theo bà Tô Thị Thu Hương, trước đây, trong dịch vụ tin cậy chỉ có dịch vụ chứng thực CKS, hiện nay chúng ta đã có dịch vụ chứng thực CKS công cộng, dịch vụ cấp dấu thời gian, dịch vụ chứng thực thông điệp dữ liệu là những dịch vụ tin cậy cơ bản để giúp cho người dân, DN, xã hội thực hiện trên môi trường điện tử.

Chứng thư điện tử lần đầu tiên được đưa vào Luật, đại diện cho tất cả các loại giấy phép, văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận để giải quyết các điểm vướng mắc lớn nhất trong thực hiện DVCTT toàn trình, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính bằng điện tử. Ngoài ra, Luật GDĐT (sửa đổi) cũng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc quy định các giao kết HĐĐT.

Bên cạnh đó, Luật GDĐT (sửa đổi) cũng quy định các vấn đề liên quan đến nền tảng số, hạ tầng số, HTTT, chia sẻ dữ liệu và các chi phí để đảm bảo cho việc xây dựng vận hành, chia sẻ dữ liệu cho CQNN, cũng như mở dữ liệu tạo thành nguồn tài nguyên để phát triển ngành công nghiệp số sau này.

Giám đốc NEAC nhấn mạnh: “Luật GDĐT sửa đổi có thể coi là đạo luật cơ bản thúc đẩy CĐS. Việc thực thi Luật này sẽ tạo cơ sở thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu, đề xuất Luật CĐS ở giai đoạn sau”.

quoc-hoi-thong-qua-luat-gddt-2023_3.jpg
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng và các đại biểu tại Kỳ họp thứ V Quốc hội khóa XV thông qua Luật GDĐT (sửa đổi) 2023 ngày 22/6/2023.

Thúc đẩy các hoạt động từ môi trường thực lên môi trường số

Trả lời truyền hình Quốc hội bên thềm Luật GDĐT (sửa đổi) được thông qua, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng cho biết, việc sửa đổi Luật GDĐT để thúc đẩy các hoạt động từ môi trường thực lên môi trường số có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng để đưa nghị quyết, đưa CĐS vào cuộc sống. Việc hoàn thiện thể chế lần này được thực hiện trong một thời gian nhanh kỷ lục, chỉ mất khoảng 2 năm kể từ khi Đảng có chủ trương (năm 2021) và được Chính phủ thể chế hóa thành văn bản luật.

Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh thay đổi lớn nhất khi Luật GDĐT (sửa đổi) được ban hành và có hiệu lực là từ nay tất cả những giao dịch trên môi trường số sẽ có giá trị tương đương và có thể sử dụng thay thế cho những giao dịch trên bản giấy. Nhờ vậy, người dân và DN sẽ thuận lợi hơn cũng như có quyền được lựa chọn phương thức giao dịch nào mà họ thấy phù hợp.

Từ nay, người dân và DN đã có cơ sở pháp lý để thực hiện triển khai DVCTT toàn trình trên môi trường mạng từ đầu đến cuối. Thậm chí kết quả cuối cùng khi trả về cho người dân, DN cũng là bản điện tử và có giá trị tương đương như bản giấy. Khi đó việc chia sẻ, sử dụng lại sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với hiện nay.

Đồng thời, Luật GDĐT (bổ sung) đã mở rộng ra hầu hết các lĩnh vực trong đời sống, kinh tế - xã hội và không còn những điều khoản loại trừ không được áp dụng.

“Bộ TT&TT sẽ chủ động tham mưu và đề xuất với Chính phủ để ngay khi Luật có hiệu lực thì toán bộ các Nghị định hướng dẫn cũng sẽ được ban hành, có hiệu lực”, Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh.

Để chuẩn bị cho việc thi hành, triển khai Luật, Bộ TT&TT đề xuất một số nhiệm vụ, hành động cụ thể đối với CQNN, tổ chức, DN.

Cụ thể, đối với CQNN, cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến, tập huấn Luật GDĐT, Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan biên soạn tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến Luật GDĐT. Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức tập huấn nội dung quy định của Luật GDĐT.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật GDĐT bằng các hình thức phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của địa phương và từng đối tượng, địa bàn (thông qua lồng ghép chuyên đề trong các hội nghị, lớp tập huấn, cập nhật kiến thức pháp luật mới theo kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật).

Bộ TT&TT cũng sẽ rà soát các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hiện hành có liên quan đến Luật GDĐT trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền QLNN được phân công; thực hiện theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các VBQPPL. Các Bộ thực hiện rà soát VBQPPL có liên quan đến Luật GDĐT theo lĩnh vực thuộc thẩm quyền QLNN được phân công.

Về xây dựng văn bản quy định chi tiết, Bộ trưởng Bộ TT&TT, Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp luật được phân công; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm rà soát, xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình HĐND cùng cấp ban hành VBQPPL quy định chi tiết, hướng dẫn thi Luật GDĐT.

Đối với tổ chức, DN và người dân, Bộ TT&TT chủ động nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của Luật GDĐT để nắm các quy định pháp luật; Áp dụng các quy định khi thực hiện hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng như: sử dụng CKĐT, CKS, dịch vụ tin cậy. Chủ quản HTTT chủ động nâng cấp hệ thống đáp ứng các yêu cầu quy định trong Luật.

Để thúc đẩy Luật GDĐT đi vào cuộc sống, đại diện NEAC mới đây cũng cho biết người dân vẫn đang bị hạn chế về môi trường sử dụng CKS cá nhân. Do vậy, các ngành, các lĩnh vực cần cung cấp nhiều hơn các dịch vụ sử dụng CKS cá nhân để người dân có thể sử dụng.

Chương I. Những quy định chung

Chương này gồm 06 điều, mở rộng phạm vi áp dụng của hoạt động GDĐT tới tất cả các hoạt động của đời sống xã hội. Luật GDĐT sẽ quy định theo hướng không loại trừ phạm vi áp dụng của hoạt động GDĐT, tạo một khung pháp luật thống nhất về hoạt động GDĐT trong các lĩnh vực để thực hiện chuyển đổi các giao dịch từ môi trường thực sang môi trường số, thúc đẩy CĐS quốc gia.

Chương II. Thông điệp dữ liệu

Chương này gồm 15 điều quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, gửi nhận thông điệp dữ liệu và chứng thư điện tử. Theo đó, các quy định tập trung sửa đổi, chi tiết hóa cách thức xác định giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu. Bổ sung quy định điều kiện khi chuyển đổi từ bản giấy sang thông điệp dữ liệu và ngược lại. Bổ sung quy định về chứng thư điện tử nhằm tháo gỡ vướng mắc về kết quả giao dịch để có thể đưa một giao dịch lên trực tuyến toàn trình (end-to-end).

Với những sửa đổi trên, Luật GDĐT sẽ giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai GDĐT an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng.

Chương III. CKĐT và dịch vụ tin cậy

Chương này gồm 12 điều quy định về CKĐT và dịch vụ tin cậy trong GDĐT.

Về CKĐT, Luật GDĐT cơ bản không thay đổi về nguyên tắc so với Luật GDĐT năm 2005, chỉ khái quát hóa, sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về CKĐT, CKĐT chuyên dùng, CKS, CKS chuyên dùng công vụ và CKS công cộng. Luật GDĐT cũng góp phần giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của các loại hình CKĐT, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai GDĐT an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng.

Về dịch vụ tin cậy, Luật GDĐT quy định về dịch vụ tin cậy, trong đó ngoài dịch vụ chứng thực CKĐT (dịch vụ chứng thực CKS công cộng) và dịch vụ cấp dấu thời gian đã có và được triển khai trên thực tế, Luật bổ sung thêm dịch vụ chứng thực thông điệp dữ liệu.

Chương IV. Giao kết và thực hiện HĐĐT

Chương này gồm 06 điều quy định về giá trị pháp lý của HĐĐT, nguyên tắc giao kết và thực hiện HĐĐT, việc nhận, gửi, thời điểm, địa điểm nhận, gửi thông điệp dữ liệu trong giao kết và thực hiện HĐĐT. Luật GDĐT bổ sung thêm quy định về hợp

đồng được ký kết thông qua HTTT tự động, cơ bản sẽ giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của HĐĐT, cập nhật với tính sẵn sàng của công nghệ và thực tiễn triển khai trong nước và quốc tế, bảo đảm triển khai giao dịch HĐĐT an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên môi trường mạng.

Chương V. GDĐT của CQNN

Chương này gồm 05 điều quy định về GDĐT của CQNN. Luật GDĐT bổ sung các quy định về quản lý dữ liệu, CSDL, dữ liệu mở, các quy định đối với CQNN nhằm thúc đẩy hoạt động GDĐT, hướng đến việc chuyển toàn bộ hoạt động lên môi trường số, đẩy mạnh CĐS, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Các nội dung của Chương này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ GDĐT của các CQNN và các tổ chức, cá nhân, tháo gỡ các vướng mắc về các CSDL chuyên ngành, trong việc thực hiện các TTHC, dịch vụ công trên môi trường mạng với giải pháp khả thi để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước.

Chương VI. Hệ thống thông tin phục vụ GDĐT

Chương này gồm 04 điều quy định về các loại HTTT phục vụ GDĐT tài khoản GDĐT, trách nhiệm của chủ quản HTTT phục vụ GDĐT, trách nhiệm giám sát của CQNN và biện pháp bảo vệ GDĐT.

Các quy định tại Chương này là cơ sở để tăng cường QLNN trong GDĐT, thực hiện việc giám sát đối với các nhà cung cấp nền tảng số phục vụ GDĐT để bảo đảm quyền lợi người sử dụng, bảo đảm hoạt động GDĐT diễn ra an toàn, tin cậy.

Chương VII. Quản lý nhà nước về GDĐT

Chương này gồm 02 điều quy định về nội dung QLNN và trách nhiệm QLNN về GDĐT. Chính phủ thống nhất QLNN về GDĐT. Bộ TT&TT là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện QLNN về GDĐT. Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh phối hợp với Bộ TT&TT thực hiện QLNN về GDĐT trong lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện QLNN về GDĐT trong lĩnh vực cơ yếu, CKS chuyên dùng công vụ trên cơ sở tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về CKS theo quy định của pháp luật.

Chương VIII. Điều khoản thi hành

Chương này gồm 03 điều quy định về điều khoản chuyển tiếp, hiệu lực thi hành để đảm bảo việc thực thi Luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã và đang tham gia hoạt động GDĐT trước thời điểm Luật GDĐT có hiệu lực.

(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 6 tháng 6/2023)

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Luật Giao dịch điện tử 2023 - nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO