Để cụ thể hóa định hướng, chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp CNTT trong giai đoạn tới thì việc làm chủ công nghệ, thiết kế sản xuất trong nước cần phải được xác định là quan điểm chủ chốt để phát huy ý chí tự lực, tự cường, tạo nền tảng làm chủ công nghệ số đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hiểu theo cách đơn giản, “tự lực, tự cường” là tự mình lo công việc của mình, tạo dựng sức mạnh cho mình tránh lệ thuộc, phụ thuộc. Tự lực và tự cường có thể đồng thời biểu thị ý chí, năng lực của cá nhân, tổ chức và quốc gia, dân tộc. Trong đó, sự tự lực và tự cường của từng cá nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc hình thành sự tự lực và tự cường của tập thể, đất nước, dân tộc.
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang có tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, càng đòi hỏi Việt Nam phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường để bảo vệ vững chắc môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh đối với sức mạnh nội sinh: khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Trên cơ sở các quan điểm, chỉ đạo của Đảng nêu trên, phát triển công nghiệp CNTT trong thời gian tới cần phải bám sát và cụ thể hóa vào việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, các chiến lược, chương trình, đề án, dự án nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp.
Hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp CNTT Việt Nam độc lập tự cường
Luật CNTT năm 2006 gồm 4 thành phần chính là: nghiên cứu - phát triển, phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp CNTT, phát triển dịch vụ CNTT, cụ thể tại các Điều từ 38 đến 53 của Luật CNTT. Ngoài ra, nội dung về phát triển CNTT còn được đề cập tại Chương IV của Luật CNTT về biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển CNTT. Các cấu phần của ngành công nghiệp CNTT được quy định tại Luật CNTT bao gồm các loại hình: Công nghiệp phần cứng, điện tử; công nghiệp phần mềm; công nghiệp nội dung số; khu CNTT tập trung.
Để làm rõ hơn một bước nữa các khái niệm trong lĩnh vực công nghiệp CNTT, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/5/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều về công nghiệp CNTT của Luật CNTT. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 quy định về khu CNTT tập trung và Quyết định số 2407/QĐ- TTg ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 để tạo hành lang pháp lý phát triển khu CNTT tập trung.
Hiện nay, thế giới đã bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với những thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng về khoa học, công nghệ, mức độ cạnh tranh trên trường quốc tế. Xuất hiện hàng loạt xu hướng công nghệ mới có tính đột phá, những mô hình sản xuất, kinh doanh tiên tiến trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nền kinh tế số.
Qua 2 năm ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, thương mại toàn cầu sẽ có xu hướng dịch chuyển sang các khối thương mại khu vực và tập trung nhiều hơn vào việc sản xuất bằng nội lực. Các Chính phủ sẽ cần tập trung nguồn lực vào một số mặt hàng nhất định như dược phẩm và thiết bị y tế, và phải dựa nhiều hơn vào nguồn cung trong nước để tránh rơi vào tình trạng bị động khan hiếm hàng hóa. Thông thường sau mỗi cuộc khủng hoảng lại xuất hiện kỷ nguyên mới và đại dịch COVID-19 sẽ đẩy nhanh quá trình đó. Đại dịch COVID-19 mở ra khả năng về một nền kinh tế thế giới hoàn toàn khác biệt so với hiện trạng đã được duy trì suốt mấy chục năm nay, trật tự kinh tế mới sẽ thiết lập với các mối quan hệ mới.
Trên bình diện quốc gia, khi một đất nước có đủ nguồn lực, chủ động giữ được sự phát triển ổn định nhờ thích ứng tốt với các thay đổi từ bên trong lẫn bên ngoài, thì đất nước ấy vững mạnh, người dân được hưởng ấm no, hạnh phúc. Có thể gọi đó là thời kỳ hùng cường, thịnh vượng, là niềm mơ ước của mọi quốc gia, mọi nhà nước.
Tại Việt Nam hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp cũng đang chuyển biến tích cực, giảm dần tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, các ngành công nghệ thấp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghệ trung bình và công nghệ cao. Chúng ta đã hình thành và phát triển được một số tập đoàn công nghiệp tư nhân lớn có tiềm năng vươn ra thị trường khu vực và quốc tế. Công nghiệp cũng trở thành ngành có tỷ lệ đóng góp lớn nhất đối với ngân sách nhà nước, và cũng là ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và nâng cao đời sống của nhân dân. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng GDP cả nước. Cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo trong xuất khẩu tiếp tục tăng từ 85,19% năm 2020 lên 86,24% năm 2021.
Tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp đã đặt ra yêu cầu Chính phủ giao Bộ Công Thương xây dựng Luật Phát triển công nghiệp [2] để làm cơ sở pháp lý cao nhất nhằm thống nhất triển khai các chính sách phát triển công nghiệp của quốc gia. Khi Luật Phát triển công nghiệp được thông qua sẽ là cơ sở pháp lý để Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chính sách phát triển đối với các phân ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp vật liệu, công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp CNTT, điện tử viễn thông..., tiến tới huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội hóa để hiện thực hóa các mục tiêu mà Đảng, Chính phủ đã đặt ra.
Do vậy, để phát triển ngành công nghiệp CNTT đồng bộ và thống nhất với phát triển công nghiệp của đất nước, việc nghiên cứu xây dựng hình thành khung pháp lý tổng thể về công nghiệp CNTT là cần thiết, để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và đúng nhiệm vụ được giao.
Mục tiêu xây dựng khung hành lang pháp lý công nghiệp CNTT:
(i) Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp CNTT.
(ii) Xây dựng và bảo vệ được không gian tăng trưởng và phát triển kinh tế số (bền vững và tự chủ) dựa trên các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, sản xuất, cung cấp, ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngành công nghiệp CNTT Việt Nam.
(iii) Thống nhất các nội dung quy định về công nghiệp CNTT trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, tránh việc quy định chồng chéo, mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn, vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thi hành pháp luật về phát triển CNTT, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc thực hiện chính sách công trong hoạt động lĩnh vực công nghiệp CNTT, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp CNTT.
Quan điểm xây dựng khung hành lang pháp lý cho công nghiệp CNTT:
(i) Bảo đảm phù hợp, thống nhất với Hiến pháp và các quy định của pháp luật có liên quan; bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương, quan điểm lớn của Đảng tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 liên quan đến lĩnh vực công nghiệp CNTT và phù hợp với các chiến lược, quy hoạch đã được phê duyệt.
(ii) Tạo khung pháp lý toàn diện để phát triển công nghiệp CNTT, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các sản phẩm, công nghệ, mô hình mới có tính sáng tạo, đột phá; tạo điều kiện bảo đảm công nghiệp CNTT phát triển nhanh đi đôi với phát triển bền vững; bảo đảm phù hợp với nhu cầu thực tiễn và xu thế phát triển công nghiệp CNTT.
(iii) Bảo đảm những nội dung về công nghiệp CNTT trong Luật CNTT năm 2006 được kế thừa và bổ sung hoàn chỉnh, tiếp tục thực hiện theo quy định tại Luật CNTT và các văn bản hướng dẫn.
Một số gợi ý chính sách trong khung khổ pháp lý cho công nghiệp CNTT cần giải quyết:
(i) Quy định hoạt động công nghiệp công nghệ số, sản phẩm, dịch vụ CNTT. Quy định này bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn phát triển, không có khoảng trống, không chồng chéo với các ngành công nghiệp khác khi CNTT đã và đang được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực; Thúc đẩy, tạo cơ chế bảo vệ cho hoạt động nghiên cứu, phát triển, thương mại hoá các sản phẩm, dịch vụ mới được tạo ra khi ứng dụng CNTT vào các lĩnh vực kinh tế xã hội; giảm thiểu các rủi ro khi triển khai sản phẩm, dịch vụ CNTT mới, mô hình kinh doanh mới vào trong mọi mặt của đời sống.
(ii) Chính sách bảo đảm cho phát triển công nghiệp CNTT: Chính sách này phải đảm bảo góp phần tạo cơ chế, nguyên tắc để hình thành và triển khai hiệu quả các biện pháp cho phát triển công nghiệp CNTT; Hình thành được hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết để phát triển ngành công nghiệp CNTT.
(iii) Quy định cơ chế chính sách cho phép dùng thị trường trong nước để nuôi dưỡng, phát triển ngành công nghiệp CNTT theo định hướng Make in Viet Nam (thể hiện được hàm lượng sáng tạo, thiết kế, sản xuất tại Việt Nam trong sản phẩm, dịch vụ công nghệ số); phát triển thương hiệu ngành công nghiệp CNTT Việt Nam; hệ sinh thái thúc đẩy phát triển doanh nghiệp (DN) CNTT.
(iv) Quy định về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ CNTT xuyên biên giới; quy định phạm vi, tiêu chuẩn tham gia các Thỏa thuận hoặc Hiệp định kinh doanh Kỹ thuật số tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại sản phẩm công nghệ số xuyên biên giới; nền tảng ghi nhận hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ CNTT.
Phát huy sức mạnh nội lực để phát triển công nghiệp CNTT
Với quy mô dân số gần 100 triệu người, với tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh cao, thị trường nội địa là cái nôi để phát triển công nghiệp CNTT Việt Nam. Chúng ta cần nghiên cứu để quy định các biện pháp, chế tài, chính sách phát triển thị trường nội địa, cụ thể như chính sách đầu tư mua sắm, sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNTT phục vụ chuyển đổi số (CĐS), xây dựng chính phủ số (ví dụ có thể quy định tỷ lệ sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sản xuất trong nước); chính sách phát triển DN CNTT tập trung vào sáng tạo, thiết kế, thử nghiệm sản xuất tại Việt Nam bởi các DN Việt Nam.
Quy định về phát triển nguồn nhân lực CNTT tạo điều kiện, hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Trong xu thế CĐS, nguồn nhân lực có ý nghĩa then chốt, tuy nhiên quy định hiện hành chưa có chính sách cụ thể để phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là phát triển kỹ năng số và thu hút nhân lực công nghệ số xuất sắc trong nước và nước ngoài,... Phát triển nhân lực sẽ là yếu tố then chốt để phát triển ngành công nghiệp CNTT trong giai đoạn tới.
Tài nguyên dữ liệu số đang trở thành tài nguyên quan trọng, là đầu vào và đầu ra cho sự phát triển của công nghiệp CNTT (chẳng hạn như các DN muốn phát triển các sản phẩm phần mềm, nền tảng số, đặc biệt là các sản phẩm ứng dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo thì cần sử dụng rất nhiều dữ liệu từ người sử dụng, cơ quan nhà nước, từ các thiết bị IoT, các sàn thương mại điện tử... để có thể ra đưa ra quyết định/kết quả chính xác. Do vậy, việc có các quy định về thu thập, sử dụng, khai thác, phân tích các dữ liệu phục vụ cho phát triển công nghiệp CNTT là cần thiết để nghiên cứu và ban hành chính sách cho phù hợp thực tiễn.
Đồng thời, khung khổ pháp lý cho công nghiệp CNTT cũng cần giải quyết tính pháp lý hoá hoạt động của đầu tư, kinh doanh trung tâm dữ liệu (TTDL), dịch vụ TTDL hiện nay. Tạo khung pháp lý để xử lý các vấn đề về tranh chấp, rủi ro. Phát triển TTDL trở thành một trong các kết cấu hạ tầng quan trọng cho lưu trữ, xử lý dữ liệu số phục vụ phát triển công nghiệp CNTT và CĐS quốc gia, tạo thuận lợi để Việt Nam cung cấp dịch vụ TTDL cho thị trường trong nước và các nước trong khu vực.
Việc quy định trung tâm tính toán hiệu năng cao trong khung khổ pháp lý cũng là cơ sở để đầu tư phát triển mạng lưới trung tâm tính toán hiệu năng cao để Việt Nam đẩy mạnh nghiên cứu phát triển CNTT, công nghệ lõi trong thời gian, đặc biệt là những công nghệ mới, phức tạp, quy mô/phạm vi ứng dụng lớn như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (big data)...
Tuy nhiên, để công nghiệp CNTT nước nhà có năng lực tự lực, tự cường thì sức mạnh nội lực, tổng hợp của quốc gia là yếu tố quyết định, nhất là: khả năng tự chủ trong nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo và làm chủ công nghệ lõi, công nghệ số mới, nguồn nhân lực CNTT, kết cấu hạ tầng số và các nguồn lực khác. Để đạt được như vậy, cần bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm Chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và kiên định, quyết liệt thực hiện các mục tiêu dài hạn; đồng thời, linh hoạt điều chỉnh các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong từng bước đi cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Giải pháp quan trọng để tăng cường khả năng tự lực, tự cường của công nghiệp CNTT là nâng cao năng lực làm chủ công nghệ lõi, công nghệ mới, nghiên cứu, sáng tạo sản phẩm, dịch vụ công nghệ số nhằm hiện thực hóa chủ trương “Make in Viet Nam” phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Đồng thời, Việt Nam cần chú trọng phát triển hệ sinh thái sản phẩm công nghệ số “Make in Viet Nam” có chất lượng và thương hiệu thông qua việc ban hành các chính sách thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện cho DN CNTT áp dụng các chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia về quy trình sản xuất, quản lý chất lượng, bảo đảm an toàn thông tin như các tiêu chuẩn CMMi (Mô hình trưởng thành năng lực tích cực), ISO, Agile (Phương pháp phát triển phần mềm), Scrum (Quy trình phát triển phần mềm) và các chuẩn quốc tế phù hợp khác.
Cùng với giải pháp trên, Nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp CNTT bằng việc nghiên cứu, ban hành khung kỹ năng về nhân lực công nghệ số theo mục tiêu, theo giai đoạn để tạo đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực số dồi dào và chất lượng, phối hợp cơ quan nghiên cứu hình thành hệ thống các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng trọng điểm đào tạo nhân lực công nghệ số chất lượng cao, đạt trình độ quốc tế, đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng, chất lượng của thị trường, hỗ trợ cơ chế hình thành các dự án/chương trình có sự tham gia của DN - chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước, bồi dưỡng lẫn nhau, hài hòa trộn thực tiễn và lý luận.
Định hướng, hỗ trợ DN công nghệ số chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo trong các hoạt động: đầu tư vào giáo dục, đào tạo; cử chuyên gia tham gia đào tạo, giảng dạy; xây dựng chương trình đào tạo; hỗ trợ khởi nghiệp; nghiên cứu khoa học và công nghệ; tiếp nhận và tạo điều kiện cho người học, giảng viên trong công tác thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Ngoài ra, nhu cầu đầu tư cho phát triển công nghiệp CNTT cũng rất cần thiết, bên cạnh phát huy hiệu quả nguồn ngân sách Nhà nước, cần tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho nhiệm vụ này, kể cả vốn đầu tư của nước ngoài và của các thành phần kinh tế trong nước.
Kết luận
Bài học về tinh thần tự chủ, tự cường vẫn luôn vẹn nguyên giá trị. Con đường để công nghiệp CNTT Việt Nam tự lực, tự cường trong giai đoạn tới là hoàn toàn chín muồi, đòi hỏi cả sự kiên trì, quyết tâm chính trị, giải pháp hiệu quả và nỗ lực từ rất nhiều phía, cả Đảng, Chính phủ, tổ chức, DN CNTT.
Phát huy bài học về tự lực tự cường trong khát vọng phát triển nhanh, đột phá ngành công nghiệp CNTT, khẳng định vị thế là trụ cột cho xây dựng xã hội số, Chính phủ số hiện đại hóa, thông minh hóa ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp và mọi mặt đời sống xã hội; có sức mạnh, vị thế và tầm ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới; nòng cốt của nền công nghiệp hiện đại đất nước vào năm 2030 góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1.Thy Thảo,"Lực đẩy mới chocông nghiệp chế biến, chế tạo", Tạp chí Công Thương, 03/02/2022 (https://tapchicongthuong.vn).
2. Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30/8/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 8 tháng 8/2022)