Truyền thông

Vấn đề Biển Đông - góc nhìn từ các học giả

Ngọc Anh28/10/2023 13:49

Theo bà Paola Pampaloni, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á và Thái Bình Dương, Cơ quan Đối ngoại Liên minh châu Âu (EEAS), EU có lợi ích chiến lược và kinh tế sống còn gắn liền với an ninh không gian biển và sự thịnh vượng của các quốc gia ven biển Đông. EU phản đối mạnh mẽ bất cứ hành vi nào làm gia tăng căng thẳng và làm suy yếu trật tự dựa trên luật lệ.

vna_potal_khai_mac_hoi_thao_khoa_hoc_quoc_te_ve_bien_dong_lan_thu_15_stand.jpeg
Phiên thảo luận với sự tham gia của nhiều học giả tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ 15. Ảnh: TTXVN.

Đây là một trong những ý kiến của các học giả nước ngoài tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông được tổ chức vào ngày 25-26/11 tại TP Hồ Chí Minh.

Lo ngại “vùng xám”

Trong 8 phiên thảo luận và phát biểu, các diễn giả tham gia hội thảo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác nhằm đảm bảo môi trường an ninh tại biển Đông, đề xuất việc thể chế hoá Diễn đàn Cảnh sát biển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Các diễn giả cũng cho rằng chuyển đổi xanh và bền vững trong việc khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng, tài nguyên biển là xu hướng không thể đảo ngược. Tuy nhiên, các nước phải cân bằng giữa khai thác và bảo tồn hệ sinh thái biển, cần có khuôn khổ hợp tác về bảo vệ, xây dựng, duy trì cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đại diện thế hệ trẻ đến từ các quốc gia Đông Nam Á cũng đã tham gia thảo luận về những lo ngại của thế hệ trẻ trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông; đồng thời chia sẻ một số ý tưởng, đề xuất để đạt được một Biển Đông hòa bình, ổn định và thịnh vượng.

europaba_2012031913490513_big.jpeg
Bà Paola Pampaloni, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á và Thái Bình Dương, Cơ quan Đối ngoại Liên minh châu Âu (trái).

Tham dự hội thảo dưới hình thức trực tuyến, bà Paola Pampaloni, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á và Thái Bình Dương, Cơ quan Đối ngoại Liên minh châu Âu (EEAS), khẳng định EU coi trọng chủ nghĩa đa phương, cho biết EU có lợi ích chiến lược và kinh tế sống còn gắn liền với an ninh trên không gian biển và sự thịnh vượng của các quốc gia ven biển Đông. Do đó, EU phản đối mạnh mẽ bất cứ hành vi nào làm gia tăng căng thẳng và làm suy yếu trật tự dựa trên luật lệ. Bà Pampaloni khẳng định Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là “ngọn đèn dẫn đường”, “kim chỉ nam” định hướng cho giải quyết hoà bình các tranh chấp tại khu vực.

dai-bieu.jpg
Đại biểu tham dự Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ 15.

Bên cạnh đó, EU ủng hộ tiến trình đàm phán do ASEAN dẫn dắt nhằm hướng tới một bộ quy tắc ứng xử COC hiệu quả, thực chất và ràng buộc pháp lý, trong đó COC phải tôn trọng lợi ích của bên thứ ba, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Tại phiên thảo luận thứ 5, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các lực lượng Cảnh sát biển ở khu vực. Hầu hết đều bày tỏ quan ngại sâu sắc về các hoạt động “vùng xám”, một số hoạt động đơn phương của tàu hải cảnh Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây. Các nước nhỏ và vừa nên đẩy mạnh hợp tác, tương tác với nhau, hành động nhất quán, đoàn kết dựa trên luật pháp quốc tế để tạo sức mạnh tập thể; khuyến nghị thể chế hoá Diễn đàn Cảnh sát biển ASEAN. Một số ý kiến cho rằng, các nước trong khu vực cần thống nhất chuẩn mực của tàu Cảnh sát biển, hợp tác chia sẻ chuyên môn về thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ an toàn môi trường biển và duy trì trật tự trên biển, nâng cao kỹ năng và sự chuyên nghiệp của cảnh sát biển.

Chuyển đổi xanh để phát triển năng lượng biển

Thảo luận về “Thời điểm quyết định: Năng lượng truyền thống hay năng lượng tái tạo?” trong phiên thứ 6, các học giả quan tâm việc phát triển điện gió ngoài khơi, chuyển đổi năng lượng và khai thác tài nguyên đất hiếm. Theo đó, việc chuyển đổi xanh và bền vững trong khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng, tài nguyên biển là xu hướng tất yếu. Các nước phải cân bằng giữa khai thác và bảo tồn hệ sinh thái biển, góp phần đạt được mục tiêu thứ 7 của các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs) vào năm 2030 và mục tiêu của COP26 về phát thải ròng bằng không (net-zero) vào năm 2050.

Hầu hết đại biểu đánh giá cao tiềm năng điện gió của Việt Nam với vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và tài nguyên đất hiếm đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Có ý kiến khuyến nghị về việc khai thác đồng bộ năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng truyền thống thành năng lượng xanh thông qua sử dụng công nghệ và khả năng tích trữ CO2.

Chia sẻ bài học kinh nghiệm thu hút đầu tư điện gió ngoài khơi, đại biểu cho rằng, cần có khuôn khổ thể chế nhất quán, tin cậy, bớt thủ tục hành chính, cập nhật thông tin và sự tham gia của người dân. Việc khai thác điện gió ngoài khơi cũng cần chú ý quy định của UNCLOS 1982 liên quan đến khu vực an toàn 500 mét và các biện pháp phù hợp để bảo đảm an toàn giao thông hàng hải.

Tham dự Hội thảo khoa học, PGS.TS Nguyễn Xuân Huy, Trưởng Phòng thí nghiệm tính toán mô phỏng Khoa Kỹ thuật địa chất và dầu khí – Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM cho biết: trong các nước ASEAN, Việt Nam hiện đứng thứ hai về trữ lượng dầu khí, chỉ sau Indonesia. Nước ta có khí hậu nhiệt đới nên việc phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch rất tốt, đặc biệt là khu vực Biển Đông với tốc độ gió rất cao, có nhiều tiềm năng phát triển điện gió: "Ở Việt Nam, từ Vũng Tàu đi ra ngoài 30-40 cây số thì mực nước biển vẫn dưới 50 mét nên phát triển điện gió rất tốt, khu vực gió rất nhiều. Cho nên đó là thuận lợi, Việt Nam hiện chỉ sau Trung Quốc về phát triển điện gió ngoài khơi. Ở châu Á – Thái Bính Dương, hiện nay Việt Nam đi đầu trong phát triển năng lượng tái tạo, tuy nhiên sự phát triển quá nhanh dẫn tới sự cố như tắc nghẽn lưới điện, cho nên phải làm sao hài hòa lại".

Tăng cường tôn trọng luật pháp quốc tế

Là một người có nhiều năm nghiên cứu về địa chính trị khu vực châu Á - Thái Bình Dương và chỉ có một lần không tham dự hội thảo quốc tế về Biển Đông, Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia cho rằng, Việt Nam ngày càng điều chỉnh nội dung hội thảo tập trung vào các vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm. Chủ đề hội thảo mỗi năm hướng vào những vấn đề khác nhau, đại biểu cũng học hỏi được nhiều hơn và ngày càng đi sâu hơn vào các vấn đề hội thảo đặt ra. Hội nghị lần này có sự tham gia của đại diện Cảnh sát biển châu Âu.

giao-su-cathay(1).jpeg
Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia phát biểu tại Hội thảo.

Theo Giáo sư Carl Thayer, đối với bất kỳ vấn đề nào ở Biển Đông, không phải lúc nào kỳ vọng cũng được đáp ứng và tiến độ diễn ra khá chậm. Tuy nhiên, Indonesia với tư cách là nước Chủ tịch ASEAN đã hướng dẫn thúc đẩy các cuộc thảo luận, nên có thể hi vọng rằng, vấn đề đó sẽ được thực hiện bởi Chủ tịch tiếp theo là Philippines... Cũng theo Giáo sư, luật pháp quốc tế đại diện cho lợi ích của cộng đồng quốc tế, ưu tiên giải quyết xung đột thông qua biện pháp ngoại giao. Luật pháp quốc tế không được sử dụng như một vũ khí để nâng cao an ninh quốc gia mà để làm rõ và hướng dẫn hành vi của các quốc gia...

Chia sẻ suy nghĩ của mình, Giáo sư Rober Beckman, Trung tâm Luật Quốc tế, Trường Đại học Quốc gia Singapore cho rằng, Hội thảo rất hữu ích và thú vị vì những gì được các chuyên gia quốc tế thảo luận trong các cuộc họp chính thức cũng như bên lề đều rất quan trọng. Các đại biểu đều hy vọng sẽ có sự hiểu biết tốt hơn, đặc biệt là từ các học giả đến từ châu Âu và ngoài khu vực Đông Nam Á, về những khó khăn và thách thức liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông.

giao-su-rober.jpeg
Giáo sư Rober Beckman.

Để thu hẹp “vùng biển xám” và mở rộng “vùng biển xanh” cho Biển Đông trong tương lai, Giáo sư Rober Beckman cho rằng, sẽ rất hữu ích nếu tiếp tục thảo luận về “vùng biển xám”, để phân tích không chỉ những gì đang xảy ra ở Đông Nam Á mà cả với các khu vực khác của châu Á.

dai-dien-the-he-tre-dong-nam-a.jpeg
Các diễn giả trẻ trong phiên "Tiếng nói của thế hệ kế cận".

Trong phiên 8 “Tiếng nói của thế hệ kế cận”, 5 diễn giả trong chương trình Lãnh đạo trẻ của Hội thảo từ Australia, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Tổ chức quốc tế Quản lý Tổng hợp Bền vững Biển Đông Á (PEMSEA) cho rằng, để đạt được hòa bình và ổn định trên Biển Đông, các quốc gia trong khu vực phải tăng cường tôn trọng luật pháp quốc tế; sớm hoàn thành COC.

Đặc biệt là đẩy mạnh hợp tác với nhau cũng như với các quốc gia ngoài khu vực để cùng giải quyết các mối quan tâm chung về phát triển năng lượng sạch, thúc đẩy nghiên cứu khoa học biển, phòng chống nước biển dâng, bảo vệ hệ sinh thái biển./.

Bài liên quan
  • Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí bền vững ở khu vực biển Đông
    Biển Đông được đánh giá là vùng giàu tiềm năng về dầu khí, giá trị khai thác có thể lên đến hàng nghìn tỷ đô la Mỹ. Để quá trình khai thác hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đang tích cực cùng với các nước trong khu vực hợp tác khai thác nguồn tài nguyên quý giá này một cách biền vững.
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Vấn đề Biển Đông - góc nhìn từ các học giả
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO