Đồng thời, nhờ các giải pháp này, góp phần rút ngắn con đường đạt mục tiêu phát triển kinh tế, nhất là kinh tế số và đảm bảo phục vụ, nâng cao mọi lợi ích, lợi cho toàn thể người dân, các khách hàng được thụ hưởng, trải nghiệm, tăng các giá trị, lợi ích, tiện lợi số trên môi trường mạng.
Vẫn còn những khó khăn, hạn chế
Trên quan điểm lãnh đạo, người quản lý, theo ông Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, hiện nay các khó khăn chính yếu của quá trình CĐS cho các tổ chức tài chính, ngân hàng chủ yếu vẫn là các hạn chế về: quy định pháp lý đối với giao dịch điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, chia sẻ dữ liệu, bảo mật thông tin, quy trình nghiệp vụ với thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong NH.
"Không chỉ vậy, việc chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật cũng rất quan trọng để tạo thuận lợi cho kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành NH với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số. Mà điều này chúng ta đang thực hiện, nhưng cần sự tích cực, nỗ lực nhiều hơn", Phó Thống đốc mong muốn.
Cũng trên quan điểm đánh giá về những tồn tại, khó khăn đối ngay trong cơ chế chính, chính sách hiện nay, ông Nguyễn Quang Minh, Phó Tổng giám đốc NH Timo tại IDG TEKTALK vừa được tổ chức cho rằng, các quy định của NH Trung ương đối với ngân hàng số vẫn còn nhiều điểm chưa thông thoáng dù là hợp lý để để phòng rủi ro. Tuy nhiên, NHNN có những chính sách cởi trói tốt hơn thì sự phát triển của NH số nói riêng và lĩnh vực thanh toán phi tiền mặt nói chung sẽ giúp phát triển nhanh.
Theo số liệu của NHNN Việt Nam, hiện nay có đến 95% tổ chức tín dụng đã, đang hoặc dự tính sẽ xây dựng chiến lược CĐS (trong đó có 39% tổ chức tín dụng phê duyệt chiến lược CĐS riêng biệt hoặc tích hợp trong chiến lược phát triển CNTT, 42% các tổ chức tín dụng đang hoàn thiện chiến lược CĐS). Dự kiến trong vòng 3-5 năm tới, các ngân hàng số sẽ có mức tăng trưởng doanh thu tối thiểu là 10%, và có 58,1% tổ chức tín dụng đặt kỳ vọng thu hút hơn 60% khách hàng sử dụng kênh giao dịch số, kỳ vọng tỷ lệ tăng trưởng khách hàng đạt trên 50%.
Như bổ sung cho quan điểm của mình, ông Minh lấy ví dụ, trong dự thảo Nghị định mà NHNN đã trình Chính phủ thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP, mặc dù đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn có một số điểm mà nếu tiếp tục được thay đổi thì rất tốt như: Số lượng các điểm giao dịch của các đại lý ngân hàng (agency banking) phải tương đương số điểm giao dịch ngân hàng truyền thống đang; các đại lý NH phải hoạt động ở các địa bàn đông dân cư, ít nhất là ở cấp huyện trở lên...
Cũng theo ông Minh, sự phát triển NH số là để vương tới các khu vực xa xôi mà dịch vụ NH lại chưa phát triển. Bên cạnh đó, các giá trị giao dịch trong ngày của NH số lại không được vượt quá 200 triệu đồng hay phí dịch vụ agency banking của NH số cũng không được cao hơn NH truyền thống. "Chính những bất cập, rào cản của quy định chắc chắn sẽ không tạo động lực cho NH số, giao dịch phi tiền mặt phát triển", ông Minh đề xuất.
NH số vẫn đang "đơn giản" cung dịch vụ, trải nghiệm qua các kênh số
Trước những hạn chế, bất cập, khó trên, vậy chúng ta cần thiết phải thay đổi, triển khai NH số, CĐS trong hệ thống các NH như nào? hướng đi, lộ trình cụ thể ra sao?... Câu trả lời được đưa ra với phần đa các ý đồng tình cho rằng, hướng triển khai NH số hiện nay chính là việc các NH cần phải tập trung xây dựng các thức cung cấp và vận hành dịch vụ trên nền tàng công nghệ số, CNTT hiện đại; phải xác định được mục tiêu của hành trình CĐS; giải quyết triệt để những khó khăn trong từng giao dịch; cụ thể hóa những trải nghiệm cho người dùng, khách hàng đảm bảo tiện lợi, dễ dàng, hiệu quả trên môi trường số…
Ông Phan Việt Hải, Giám đốc CNTT NH Bản Việt cho rằng, NH số là việc NH cung cấp các dịch vụ vượt trội thông qua sử dụng các công nghệ số phù hợp. Có nhiều cách tiếp cận về mô hình NH số theo các hướng: Từ trong ra hoặc ngoài vào; NH bán lẻ (retail banking); sử dụng hạ tầng để làm dịch vụ ngân hàng (banking as a service)….
"NH số đang mới ở Việt Nam và các NH đang thử nghiệm bằng nhiều mô hình khác nhau. NH Bản Việt đang thử nghiệm một vài mô hình NH số khác nhau, chưa xác định chính xác đang dồn tâp trung nguồn lực vào một mô hình cụ thể nào", Giám đốc CNTT Hải nhấn mạnh.
Trên quan điểm chia sẻ khái niệm, ông Phạm Quang Minh, Tổng Giám đốc, Mambu Việt Nam khái quát ngắn gọn, NH số đơn giản là việc cung cấp các dịch vụ, trải nghiệm số qua các kênh số. Ở Việt Nam, mô hình này đang hoạt động thông qua các kênh số - Đây là điểm khác với nhiều nước trên thế giới vì nhiều nước cho phép NH số hoạt động độc lập dưới hình thức là các tạp đoàn, công ty không phải là NH truyền thống.
"Các kênh số bao gồm dịch vụ số, sản phẩm số mà điều này phụ thuộc trong nhiều mô hình NH số khác nhau; phụ thuộc việc cung cấp dịch vụ theo khối khách hàng bán lẻ, hay cá nhâ, KH vừa và nhỏ… Đây là một rào cản trong việc phát triển NH số của hiện tại và tương lai", ông Minh nhận định.
Trên cương vị đại diện nhà cung cấp, tư vấn các giải pháp CĐS cho ngân hàng, ông Nguyễn Văn Tuấn Phó TGĐ CTCP VCCorp cho rằng vướng mắc lớn nhất của CĐS trong các NH hiện nay chính là vấn đề nhận thức của người đứng đầu. Theo ông Tuấn, yếu tố quyết định cho sự thành khi CĐS nằm ở yếu tố con người, nhất là cấp lãnh đạo phải luôn quyết tâm CĐS đến cùng, hiểu đúng về CĐS.
"CĐS, công nghệ chỉ chiếm 30%, còn 70% là tư duy của người đứng đầu, cách thức chứ không phải chỉ là nâng cấp công nghệ. Quan trọng là quyết tâm", ông Tuấn nhận định.
Đồng tình cao với quan điểm của ông Tuấn, Tổng Giám đốc, Mambu Việt Nam, ông Phạm Quang Minh nhấn mạnh thêm qua ví dụ NH Singapore đã giải quyết thành công, hiệu quả bài toán NH số. Theo đó, CĐS ở các NH Singapore, điều tập trung, chú trọng không thể thiếu chính là việc tăng cường cho đội ngũ lãnh đạo có kiến thức, nhận thức số, văn hóa số.
Điều này được thực hiện không chỉ riêng với lãnh đạo cấp cao mà còn tới các cấp cán bộ quản lý, làm việc hàng ngày và phải đảm bảo có tư duy, văn hóa số, hiểu được sự chuyển đổi về hành vi trong thời đại số để hình thành các sản phẩm, dịch vụ số, đáp ứng sự thay đổi, kỳ vọng của người dùng, khách hàng. "Mô hình vận hành nhờ CĐS sẽ thay đổi về quy trình, con người, văn hoá, và các NH Singapore đang tiến tới để đảm bảo kế hoạch CĐS thành công", ông Minh dẫn chứng.
Bên cạnh đó, ông Minh cũng cho biết, hiện nay các NH Singapore đang nhìn rõ xu hướng thời đại số, kinh tế số để chuyển đổi mô hình NH số của mình. Quốc gia này xác định NH số sẽ được đảm bảo vận hành trên các ứng dụng công nghệ open API, hay tài chính nhúng (các dịch vụ NH không đơn thuần chạy trên nền tảng của mình mà các dịch vụ tài chính được nhúng trên các nền tảng số, khi đó dịch vụ ngân hàng sẽ trợ giúp được cho các nền tảng số nói riêng và kinh tế số nói chung được sử dụng NH số trên đó).
Các NH Singapore tiếp tục áp dụng công nghệ của NH số vào NH truyền thống để phục vụ nhóm khách hàng hiện hữu bao gồm cả KH cao, trẻ tuổi nhưng ở định vị khác so với định vị của NH số. Các NH này sẽ chạy song song 2 mô hình, đó là NH số thuần túy phục vụ KH trẻ và NH số theo kênh và phục vụ đa kênh (omni channel).
Công nghệ số - công cụ "cứu cánh" cho các NH
Chia sẻ về kinh nghiệm triển khai, giải pháp số cho các ngân hàng, Phan Việt Hải, Giám đốc CNTT NH Bản Việt cho rằng, giờ là thời đại mọi thứ đều lên mạng, do đó các NH muốn hoạt động ổn định, hiệu quả phải có những quy định đảm bảo về an toàn thông tin (ATTT); đầu tư, nâng cấp các thiết bị để ứng phó các vấn đề an ninh mạng - vấn đề sống còn trong việc bảo vệ thành quả.
Đồng quan điểm về sự cần thiết phải đảm bảo ATTT, ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Tổng giám đốc VCCorp cho rằng các NH cần phải làm chủ công nghệ; áp dụng công nghệ điện toán đám mây (ĐTĐM), Blockchain (sổ cái) -công cụ "cứu cánh" cho các NH. Và làm tốt chính điều, giúp tạo ra các sản phẩm, sự trải nghiệm mới cho các khách hàng.
Cũng theo ông Tuấn, đích đến của CĐS các NH, ngoài việc giảm chi phí, tăng doanh thu, lợi nhuận… thì việc làm thường xuyên, liên tục phải là tái tạo số - hình thành sản phẩm mới, kinh doanh mới. "Đây cũng là một mục tiêu, mà đã là một mục tiêu thì không bao giờ thay đổi", ông Tuấn nhấn mạnh.
Báo cáo về "Ứng dụng NH số tại Việt Nam khi lấy khách hàng làm cốt lõi" đã chỉ ra lợi ích khi các NH sử dụng điện toán đám mây (ĐTĐM) góp phần giúp: Giảm chi phí quản lý, vận hành hệ thống; rút ngắn thời gian xây dựng, mua sắm hạ tầng CNTT; đảm bảo tính sẵn sàng, linh hoạt cho hệ thống khi muốn nâng cấp; tăng tốc phát triển các sản phẩm mới, dịch vụ mới, mở rộng thị trường và nâng cao năng suất lao động…
Cũng mang lại nhiều lợi ích như ĐTĐM, việc sử dụng công nghệ blockchain giúp các NH xử lý thanh toán hơn, dễ dàng, chính xác, tăng khả năng cạnh tranh với các công ty Fintech hiện nay. Cùng với đó sẽ đảm các giao dịch công khai, minh bạch; tăng hiệu quả giám sát, kiểm toán giữa người tham gia - giám sát - cơ quan quản lý… "Vì vậy để tận dụng tối đa tính năng của công nghệ này,các NH cần phát triển cơ sở hạ tầng để vận hành suôn sẻ một mạng toàn cầu", báo cáo nhấn mạnh.
Như vậy, với các quan điểm chia sẻ, thêm sự khẳng định CĐS đối với các NH là một xu thế bắt buộc, cần làm thường xuyên Vì vậy, để các NH thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, trước hết trong nội tại các đơn vị cần đánh giá lại mức độ sẵn sàng số hóa của mình để từ đó tìm ra hướng đi phù hợp. Đặc biệt, trong khó khăn do đại dịch Covid-19, các NH đang phải cắt giảm mọi chi phí đầu tư… thì có lẽ, đây đang là cơ hội hiếm có để thúc đẩy các NH chuyển dịch số hóa; tạo ra cơ hội mới cho các quầy giao dịch kỹ thuật số và các NH số phát triển./.