Tìm giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho chuyển đổi số ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng chuyển đổi số (CĐS) đang diễn ra ở các quốc gia trên thế giới. Thực tế này đòi hỏi phải có một lực lao động mới, tương xứng với sự phát triển của công nghệ, cho phép con người làm chủ và sử dụng công nghệ để tổ chức và vận hành nền kinh tế, lực lượng này được gọi là nhân lực số.
Nhiều văn bản chính sách được hiện thực hóa
Nhân lực số là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp, trực tiếp thực hiện các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin (CNTT), điện tử viễn thông, an toàn thông tin (ATTT). Nhân lực số thường giữ vị trí then chốt để các quốc gia có thể thực hiện CĐS thành công, đảm nhận việc triển khai và hiện thực hóa nền kinh tế số. Để có thể thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi nhân lực số cần phải có những tiêu chí như: có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số và vận hành nó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; Có khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động và tiến bộ khoa học công nghệ mới; Có khả năng tư duy đột phá hay sáng tạo trong công việc; Có tác phong kỷ luật và đạo đức trong công việc.
Ở Việt Nam, CĐS đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm cho phát kinh tế đất nước trong những năm gần đây. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư. Hiện thực hóa chủ trương của Đảng ta, trên quy mô quốc gia, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cụ thể, nhanh chóng triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; 63 tỉnh, thành phố trên cả nước và các bộ, ngành trung ương đã ban hành các chương trình/kế hoạch/đề án riêng về CĐS trong giai đoạn 2021-2025.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng và Nhà nước ta đã xác định CĐS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội XIII: “Thực hiện CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt ra các mục tiêu cụ thể cho phát triển kinh tế số, trong đó có mục tiêu hướng tới tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP vào năm 2025 và đạt 30% GDP vào năm 2030.
Trong quá trình thực hiện CĐS, Đảng và Nhà nước cũng đã nhấn mạnh đến việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ CĐS, Chính phủ đã có một loạt các văn bản nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển nhân lực đáp ứng chuyển đối số, như: Nghị quyết 36-NQ/TW, ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị xác định việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phải gắn với phát triển NNL chất lượng cao; Quyết định số 99/QĐ-TTg, ngày 14/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin đến năm 2020 (Đề án 99); Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định nhiệm vụ “Lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ chuyên gia về CĐS cho ngành, lĩnh vực, địa phương. Tiếp nối sau khi Đề án 99 kết thúc, ngày 06/01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 21/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin giai đoạn 2021-2025”; Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động thúc đẩy thực hiện CĐS; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng xây dựng Đề án Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Giải pháp liên kết nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp
Đảng và Nhà nước đã và đang rất quan tâm tới việc phát triển nguồn nhân lực thông qua một loại các văn bản với các mục tiêu và giải pháp phát triển nguồn nhân lực được đặt ra. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phục vụ cho CĐS của Việt Nam đến nay được đánh giá là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng nhân lực số. Để phát triển nhân lực số - yếu tố then chốt trong CĐS, cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị. Trong đó, cần có sự dẫn dắt của Chính phủ thông qua các cơ chế, chính sách giữ vai trò then chốt; hoạt động giáo dục - đào tạo giữ vị trí quan trọng trong việc thực hiện các chính sách, chiến lược; doanh nghiệp là nhân tố trung tâm trong đầu tư, chuyển đổi và thích ứng với công nghệ số.
Theo đó Chính phủ cần rà soát và hoàn thiện các chiến lược về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực quốc gia phù hợp với yêu cầu CĐS; Đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai chương trình đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao, lao động kỹ thuật trong các lĩnh vực công nghệ số; Cần đẩy mạnh các chương trình, chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia, nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT để tạo nên những bước đột phá về chất lượng. Đây là lực lượng nhân lực đầu tàu, có khả năng dẫn dắt, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cho lực lượng lao động có trình độ thấp hơn có khả năng tiếp cận được máy móc, khoa học - công nghệ và trình độ quản lý hiện đại, tiên tiến. Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình cấp quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài để bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nguồn nhân lực đã được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Chú trọng đến các chính sách phân bổ nguồn lực chất lượng cao cho các vùng, miền, địa phương có điều kiện khó khăn để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.
Các doanh nghiệp cần nâng cao công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nội bộ, đây được xem là yếu tố góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể và dài hạn về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân sự gắn với chiến lược phát triển của doanh. Tạo điều kiện cho nhân viên tham gia các buổi tập huấn, các khóa đào tạo ngắn hạn liên quan đến việc cập nhật và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề cho người lao động.
Cùng với đó, các cơ sở giáo dục đào tạo công nghệ thông tin cần cập nhật những kiến thức mới vào trong chương trình đào tạo để phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. Chương trình đào tạo cần cập nhật xu thế công nghệ mới như vạn vật IoT, AI, Robot, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận sớm; Đồng thời, bổ sung vào chương trình đào đạo các hoạt động đào tạo kỹ năng số, kỹ năng mềm và đào tạo ngoại ngữ đạt chuẩn quốc tế cho nhân lực trong CĐS, như: kỹ năng sử dụng các công cụ trên nền điện toán đám mây và dữ liệu nâng cao, kỹ năng an ninh mạng, kỹ năng tự học tập linh hoạt, kỹ năng về sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp, ngoại ngữ chuyên ngành; Xây dựng hệ sinh thái với sự liên kết, chuyển giao 3 bên giữa doanh nghiệp, nhà trường và người học. Doanh nghiệp có thể tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo với nhà trường, hay trực tiếp giảng dạy kỹ năng cho học viên, đặt hàng cụ thể cho các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo nghề nghiệp đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các cơ sở đào tạo trong khu vực và quốc tế để vừa có thể thu hút được các nguồn lực nước ngoài, như: vốn, công nghệ, phương pháp giảng dạy… hỗ trợ cho sự phát triển nguồn nhân lực trong nước, vừa từng bước tham gia vào sự phân công lao động quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.