Xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia là cần thiết để định hướng tương lai
Xây dựng Trung tâm dữ liệu (TTDL) quốc gia (TTDLQG) đang ngày càng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế và công nghệ.
TTDLQG không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin mà còn để đảm bảo an ninh chủ quyền về dữ liệu, đóng vai trò quan trọng trong qua trình thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghệ của một quốc gia.
Trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao Chuyển đổi số (CĐS) Việt Nam - châu Á 2023 mới đây, tại hội thảo chuyên đề “Hạ tầng dữ liệu số và bảo mật an toàn thông tin”, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Giám đốc TTDLQG về dân cư - Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an đã thông tin về xây dựng đề án TTDLQG.
Xây dựng TTDLQG là một phần quan trọng trong phát triển kinh tế và công nghệ
Ông Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh: “Xây dựng TTDLQG đang trở thành một phần quan trọng của sự phát triển kinh tế và công nghệ. Với sự gia tăng vượt bậc về lưu trữ dữ liệu và nhu cầu tăng cường an ninh thông tin, các quốc gia trên thế giới đã nhận ra tầm quan trọng của việc tạo ra một cơ sở hạ tầng mạnh mẽ để quản lý và bảo vệ dữ liệu quốc gia".
Do vậy, xây dựng TTDLQG là ưu tiên hàng đầu đối với các quốc gia. Không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu lưu trữ thông tin mà còn để đảm bảo an ninh chủ quyền về dữ liệu, trung tâm này được thiết kế với các tiêu chuẩn cao về hiệu suất, độ tin cậy và bảo mật, đồng thời được trang bị các công nghệ tiên tiến như công nghệ ảo hóa, công nghệ điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo ra những công tác quản lý và khai thác dữ liệu tối ưu nhất, đóng vai trò quan trọng trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghệ của một quốc gia.
"TTDLQG cung cấp nền tảng cho các dự án quan trọng như: Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (big data) và các ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến khác. Điều này chứng tỏ rằng xu hướng xây dựng TTDLQG không chỉ là một khía cạnh quan trọng trong lĩnh vực CNTT mà còn là yếu tố cần thiết để định hướng tương lai của các quốc gia trên thế giới”, ông Nguyễn Anh Tuấn.
Hiện nay, trong khu vực châu Á, nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,… đã tập trung xây dựng các TTDLQG nhằm đẩy mạnh công tác CĐS từ rất sớm và đã mang lại những hiệu quả về hành chính và kinh tế. Hàn Quốc đã đưa vào hoạt động 3 TTDL lớn với hệ thống của 79 bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đã mang lại những hiệu quả kinh tế lớn cho người dân một cách kịp thời. Nhật Bản cũng đã xây dựng hạ tầng TTDL để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan hành chính và các cấp kết nối khác nhau phục vụ cho công tác khai thác, chia sẻ và quản trị dữ liệu của quốc gia.
Tại Việt Nam, từ khi có Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/01/2022 phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06), việc thực hiện CĐS đã đi đúng hướng, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Qua đó, kinh tế số và kinh tế dữ liệu được hình thành, phát triển, trở thành một bộ phận quan trọng của kinh tế Việt Nam.
Thực trạng, vướng mắc trong khai thác hệ thống thông tin phục vụ xây dựng TTDLQG
Bên cạnh những hiệu quả đem lại, các hệ thống thông tin (HTTT) của các bộ, ngành, địa phương hiện vẫn đang được xây dựng một cách rời rạc nhìn từ góc độ quản lý của Chính phủ, đặc biệt là khía cạnh đẩy mạnh phát triển Chính phủ số, công dân số và kinh tế số. Điều này mang lại không ít bất cập cho cả hiện tại và tương lai.
Một số bất cập được ông Nguyễn Anh Tuấn chỉ ra gồm: Khả năng tái sử dụng các thành phần cứng và thành phần mềm rất thấp; Các dữ liệu không thống nhất về khuôn dạng, chỉ tiêu và tiêu chuẩn trên các HTTT rời rạc của các đơn vị chủ quản khác nhau sẽ tạo ra nhiều bài toán chuyển đổi, đồng bộ, di trú dữ liệu khác nhau phát sinh ra những chi phí rất lớn và khi cần tập hợp thống nhất.
Các ứng dụng, khuôn dạng và phương thức truy xuất dữ liệu tại các HTTT rời rạc do không có tiêu chuẩn ban hành cụ thể để tuân theo, có thể không sẵn sàng cho việc chuyển sang vận hành trên nền tảng thống nhất mà đòi hỏi phải có sự chỉnh sửa, hoặc thậm chí xây dựng lại từ đầu. Chi phí phát sinh cho yêu cầu này có thể rất lớn và khó ước lượng trước.
Các HTTT rời rạc thường được thiết kế, trang bị để đảm bảo an ninh, an toàn ở mức độ cơ bản và thường không được kiểm thử, kiểm tra theo đúng tiêu chuẩn và cập nhật thường xuyên để phòng chống các rủi ro, nguy cơ phát sinh tiêu cực hàng ngày. Điều này có nghĩa là việc duy trì các HTTT liên lạc này dễ xảy ra tình trạng lộ lọt, thất thoát dữ liệu, đặc biệt là các hệ thống liên quan đến dữ liệu bí mật Nhà nước, rất khó để truy vết, điều tra, ngăn chặn thu hồi, hủy bỏ.
Mục tiêu và lộ trình xây dựng TTDLQG
Tại Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2023 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01/2023 trực tuyến với địa phương, Chính phủ đã giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng Đề án TTDLQG.
Để thực hiện chủ trương này, ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết Bộ Công an quyết liệt triển khai xây dựng Đề án TTDLQG, trong đó xác định 7 mục tiêu chính bao gồm: Dữ liệu; Quy hoạch kiến trúc dữ liệu; Phân tích và khai thác dữ liệu; Hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin; Cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính (TTHC) công; Phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số; Phát triển kinh tế xã hội.
Đề án xây dựng TTDLQG khi thực hiện được kỳ vọng là sẽ đem lại nhiều tác động tích cực trong công tác phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia: Cung cấp nền tảng vận hàng các HTTT quốc gia chuẩn mực, ổn định, hiệu năng cao và bảo mật; Nền tảng bảo mật đa lớp có kiểm soát chặt chẽ được xây dựng đồng bộ với nền tảng TTDL quy mô quốc gia này giúp đảm bảo cho các HTTT vận hành tại đây cả về an toàn thông tin lẫn an ninh mạng; Góp phần hoàn thành mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số Việt Nam đạt 52 tỷ USD chiếm 20% GDP, đưa Việt Nam vươn lên đứng thứ hai về kinh tế số ở Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, góp phần thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa tối thiểu 20% số quy định và cắt giảm tối thiểu 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan, 80% người dân, DN khi thực hiện các TTHC không cần cung cấp lại các thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được chấp nhận khi thực hiên thành công TTHC trước đó; mức độ hài lòng của người dân và DN về giải quyết TTHC đạt tối thiểu 90% đến năm 2025./.