7 CSDL Quốc gia giúp tiết kiệm cho xã hội hàng ngàn tỷ đồng
Bộ TT&TT đã “cầm nhịp” Năm Dữ liệu số quốc gia, hướng đến tạo ra sự thay đổi căn bản, tạo những tiền đề cơ bản cho sự phát triển về dữ liệu của Việt Nam giai đoạn tiếp theo với 7 kết quả chính.
Năm dữ liệu số quốc gia đã đạt được một số “hoa, nụ, quả bói”, tạo niềm tin về những vụ mùa bội thu.
Ngày 20/12/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), Viện Sáng tạo và Chuyển đổi số (CĐS), Hội truyền thông số Việt Nam (VCDA) phối hợp tổ chức Hội nghị Tổng kết năm quốc gia về dữ liệu số. Hội nghị được tổ chức với 2 hoạt động: Hội thảo chuyên đề: Chuyển đổi dữ liệu thành giá trị - Vai trò của phân tích dữ liệu, Trí tuệ nhân tạo (AI) và An toàn dữ liệu và Hội nghị tổng kết Năm Dữ liệu số quốc gia 2023.
Năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch của Ủy ban quốc gia về CĐS xác định là Năm Dữ liệu số quốc gia để thúc đẩy phát triển dữ liệu tận dụng hiệu quả sự bùng nổ dữ liệu trên các nền tảng số Việt Nam, đặc biệt, tập trung cụ thể vào các nội dung: Phát triển dữ liệu mở; phát triển cơ sở dữ liệu (CSDL); phát triển, thúc đẩy sử dụng các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn quốc hoặc trong phạm vi mỗi địa phương; nâng cao năng lực quản trị dữ liệu, an toàn, bảo mật dữ liệu.
Tại Hội nghị tổng kết năm quốc gia về dữ liệu số 2023 chiều ngày 20/12, ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng phụ trách Cục CĐS Quốc gia - Bộ TT&TT chia sẻ: “Dữ liệu không thể xây dựng ngay mà cần tích lũy, làm giàu theo thời gian. Năm 2023 - Năm Dữ liệu số quốc gia cần được hiểu mới là sự khởi đầu cho quá trình phát triển dữ liệu với bước đầu tiên là “ươm mầm” dữ liệu. Tuy vậy, năm 2023 chúng ta cũng đã đạt được một số “hoa, nụ, quả bói”, tạo niềm tin về những vụ mùa bội thu tiếp theo".
“Bộ TT&TT mong đợi những năm tiếp theo, khi chúng ta liên tục chăm sóc để dữ liệu lớn lên thật nhanh và “nở hoa, kết quả”, ông Nguyễn Phú Tiến nhấn mạnh.
Cũng theo ông Nguyễn Phú Tiến, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao về Năm Dữ liệu số quốc gia, Bộ TT&TT đã “cầm nhịp” Năm Dữ liệu số quốc gia, hướng đến tạo ra sự thay đổi căn bản, tạo những tiền đề cơ bản cho sự phát triển về dữ liệu của Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Qua tổng hợp, Bộ TT&TT nhận thấy dữ liệu trong cơ quan nhà nước đã có sự tăng trưởng vượt bậc:
Một là, hành lang pháp lý, tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện nay về dữ liệu đã được ban hành đủ các khía cạnh về tổ chức, xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng dữ liệu tương đồng với xu hướng chung của thế giới.
Hai là, đã đưa vào vận hành, khai thác sử dụng chung 07 CSDL quốc gia (CSDLQG). 05/07 CSDLQG (dân cư, đăng ký doanh nghiệp (DN), bảo hiểm, hộ tịch điện tử, cán bộ công chức, viên chưa) đã cơ bản hoàn thành, đưa vào khai thác, kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia mang lại những giá trị đo lường được, cảm nhận được.
Ba là, tỷ lệ các bộ, tỉnh đã xác định danh mục CSDL đạt 63%. Số CSDL chuyên ngành tại các bộ, ngành, địa phương được thiết lập tăng trưởng 38,5% so với năm 2022, từ 1.280 CSDL lên 2.077 CSDL. Việc công bố kế hoạch và danh mục dữ liệu mở tăng mạnh từ 9% lên 50% so với 2022.
Bốn là, nhiều CSDL đã được xây dựng, đưa vào khai thác, tạo ra giá trị.
Năm là, nhiều địa phương (điển hình như TP. Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế…) đã bắt đầu xây dựng, đưa vào khai thác các kho dữ liệu dùng chung, cung cấp dữ liệu mở phục vụ xử lý thủ tục hành chính (TTHC) theo hướng lấy người dân làm trung tâm, người dân không phải kê khai thông tin, dữ liệu thủ công nhiều lần, đi lại nhiều nơi; phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo các cấp theo hướng dựa trên số liệu “đúng, đủ, sạch, sống”.
Sáu là, kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia đã có những chuyển biến rõ rệt, tạo ra những giá trị cụ thể thực tế (như: thuận lợi, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí khi xử lý TTHC, dịch vụ công trực tuyến).
Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) đã kết nối với hệ thống của 103 cơ quan, đơn vị, DN; 10 CSDL và 15 hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu. Trung bình hằng ngày có khoảng 1,78 triệu giao dịch thực hiện thông qua nền tảng; Tổng số giao dịch thực hiện thông qua NDXP từ khi đưa vào sử dụng đến nay là hơn 1,65 tỷ giao dịch; việc gián đoạn kết nối, chia sẻ dữ liệu qua NDXP sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cung cấp dịch vụ của bộ, ngành, địa phương.
Bảy là, năm 2023, Bộ TT&TT lần đầu tiên (sau hơn 2 năm bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19) tổ chức kiểm tra một số bộ, ngành, địa phương về việc tuân thủ Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số trong cơ quan nhà nước, qua đó thúc đẩy hơn việc tạo lập, quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia.
7 CSDLQG giúp tiết kiệm cho xã hội hàng ngàn tỷ đồng
Tại Hội nghị Tổng kết năm quốc gia về dữ liệu số 2023, các đơn vị, tổ chức có nhiều đóng góp trong việc kết nối chia sẻ dữ liệu; khai thác dữ liệu phục vụ người dân, DN như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bảo hiểm Xã hội, TP. Đà Nẵng; phát triển hạ tầng dữ liệu số; số hóa dữ liệu như Viettel, VNPT… đã chia sẻ một số kết quả triển khai nổi bật.
Viện Chiến lược TT&TT, Ngân hàng thế giới (WB) chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam về nội dung chiến lược như phân loại dữ liệu theo sở hữu (công, DN, cá nhân); cơ chế khai thác, sử dụng; phát triển thị trường dữ liệu…
Ông Trần Quốc Tuấn, Cục CĐS Quốc gia đã thông tin về tình hình CSDL quốc gia quan trọng như CSDLQG về: (1) dân cư; (2) doanh nghiệp; (3) bảo hiểm; (4) hộ tịch điện tử; (5) đất đai; (6) tài chính; (7) cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC).
Cụ thể, CSDLQG về dân cư kết nối với 15 bộ, ngành; 63/63 địa phương; 04 DN; Tiếp nhận khoảng 1,35 tỷ yêu cầu để tra cứu, xác thực thông tin, đồng bộ thông tin công dân.
“CSDLQG về dân cư giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC; hạn chế việc di chuyển; thời gian chờ đợi; hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực, xác minh thông tin trên giấy tờ tùy thân; tinh gọn cán bộ, công chức bộ tiếp dân, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, loại bỏ dần tình trạng “tham nhũng vặt”... kết quả là giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng”, ông Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh.
Về CSDLQG về đăng ký DN, tháng 12/2023, lưu 1.697.908 DN (khoảng 900.000 DN đang hoạt động) và 203.966 đơn vị trực thuộc DN; lưu trữ thông tin đăng ký của khoảng 2,4 triệu hộ kinh doanh, trong đó: 260.844 hộ kinh doanh được chuẩn hóa dữ liệu, lưu trữ 30.046 hợp tác xã và đơn vị trực thuộc. Kết nối với 13 bộ, ngành và 63/63 địa phương với khoảng 41 triệu giao dịch
Toàn bộ quy trình trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước được số hóa và trao đổi điện tử. Sau khi triển khai những cải cách này, quy trình khởi sự kinh doanh ở Việt Nam giảm từ 08 thủ tục với 16 ngày xuống chỉ còn 03 thủ tục với 06 ngày.
Về CSDLQG về bảo hiểm, tháng 12/2023, quản lý khoảng 32 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm; 17,1 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH); 88,9 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT); đã xác thực hơn 93,7 triệu thông tin nhân khẩu trong CSDLQG về bảo hiểm với CSDLQG về dân cư, trong đó: khoảng 84,7 triệu người. Kết nối, chia sẻ dữ liệu với 09 bộ, ngành và một số kết nối, chia sẻ dữ liệu có phạm vi quốc gia.
Việc đăng ký khám chữa bệnh bằng thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip đã được giảm thời gian từ 10 phút đến vài giờ còn khoảng 10 giây; thời gian đón tiếp bệnh nhân ước tính giảm được hơn 01 giờ so với trước; rút ngắn thời gian thời gian chờ cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi từ 05 ngày xuống còn 02 ngày; rút ngắn thời gian giải quyết hưởng mai táng phí từ 10 ngày xuống còn 07 ngày.
CSDLQG về hộ tịch điện tử toàn quốc đã hoàn thành triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 50.000 người dùng, cụ thể: khoảng 18.000 tài khoản của công chức tư pháp - hộ tịch, 32.000 tài khoản của lãnh đạo và văn thư UBND cấp xã.
Tính đến tháng 11/2023, hệ thống đã có 48.042.352 dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó: 9.597.237 trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định (có 5.340.151 trường hợp đăng ký khai sinh được chuyển sang các cơ quan BHXH để cấp thẻ BHYT), 12.342.532 dữ liệu kết hôn, 10.533.628 dữ liệu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, 8.248.312 dữ liệu khai tử, 293.019 trường hợp nhận cha mẹ con, 20.579 trường hợp đăng ký giám hộ, 16.644 trường hợp đăng ký nhận nuôi con nuôi, 889.423 dữ liệu cải chính, thay đổi, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc.
CSDLQG này giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC; hạn chế việc di chuyển; thời gian chờ đợi; hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực, xác minh thông tin trên giấy tờ tùy thân; tinh gọn cán bộ, công chức bộ tiếp dân, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, loại bỏ dần tình trạng “tham nhũng vặt”...
Về CSDLQG về đất đai, tại Trung ương đã xây dựng và đưa vào quản lý, vận hành và khai thác sử dụng 04 khối dữ liệu đất đai do Trung ương quản lý gồm: (1) CSDL về thống kê, kiểm kê đất đai; (2) CSDL về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; (3) CSDL về giá đất đai; (4) CSDL về điều tra, đánh giá đất đai.
63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang xây dựng, hoàn thiện CSDL đất đai như: 455/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 46 triệu thửa đất và đưa vào vận hành; 705/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL thống kê, kiểm kê đất đai (từ kỳ kiểm kê 2019); 325/705 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng CSDL quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 300/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành xây dựng CSDL giá đất.
“CSDLQG về đất đai cung cấp số liệu chính xác nhanh chóng và kịp thời theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ và các bộ, ngành; Các giao dịch về đất đai được quản lý, kiểm soát công khai, minh bạch về đối tượng, nghĩa vụ tài chính phải thực hiện kèm theo; Thời gian giải quyết TTHC về đất đai đã được rút ngắn đáng kể từ 15% - 45% so với trước đây; giảm thiểu thời gian người dân, DN phải đi lại để thực hiện TTHC về đất đai”, ông Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh.
Trong khi đó, CSDLQG về tài chính đảm bảo tính chính xác, kịp thời của công tác quản lý nguồn lực tài chính quốc gia thông qua việc sử dụng một nguồn thông tin, dữ liệu trung thực tin cậy về dữ liệu tài chính công.
Về CSDLQG về CBCCVC, tổng số dữ liệu được đồng bộ tự động về CSDLQG CBCCVC đến thời điểm này là 2.309.745 hồ sơ (trong đó bộ, ngành là 217.952/271.387 hồ sơ, đạt 80,31%), địa phương là 2.020.003/2.038.358 hồ sơ, đạt 99,1%).
CSDLQG này đã kết nối, đồng bộ dữ liệu với 96 bộ, ngành, địa phương (33 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố), trong đó: 70 bộ, ngành, địa phương đã đồng bộ dữ liệu (đạt 100%) (gồm 13 bộ, ngành và 57 địa phương), các đơn vị còn lại đang tiếp tục đồng bộ dữ liệu về bảo đảm đủ số liệu của giai đoạn 1.
Đồng thời, CSDLQG này tiết kiệm thời gian trong việc tổng hợp, thống kê, báo tổng hợp, phân tích đội ngũ CBCCVC, người lao động, tổ chức bộ máy, biên chế, vị trí việc làm và các nội dung khác thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp./.