COVID-19 - cơ hội để tái khẳng định thương hiệu "Việt Nam"

Hiền Anh – Quốc Việt | 31/08/2021 16:18
Theo dõi ICTVietnam trên

Đại dịch COVID-19 như một phép thử khắc nghiệt nhất đối với nhân loại kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi hầu hết các nền kinh tế rơi vào suy thoái, thì dưới sự chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt thực hiện “mục tiêu kép”, với những nỗ lực của Chính phủ cùng sự đồng thuận của nhân dân, Việt Nam đã giữ được môi trường ổn định, phát triển kinh tế. Điều đặc biệt quan trọng nhất là hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam đã chứng minh được tính ưu việt, vượt qua thách thức và thể hiện sự chống chịu các cú sốc từ rủi ro dịch bệnh bên ngoài.

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam nửa cuối 2021: động lực nào để vượt qua khó khăn thách thức

Báo cáo kinh tế Thường niên 2021 của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng tương lai kinh tế thế giới trong năm 2021 đã bớt bất định hơn nhờ kinh nghiệm ứng phó với bệnh dịch và việc triển khai tiêm phòng vắc xin ở nhiều nước lớn trên thế giới. Trong năm 2020, mặc dù có sụt giảm rất lớn so với các năm trước đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất trong các quốc gia châu Á và nằm trong nhóm các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Trong nửa đầu năm 2021, nền kinh tế Việt Nam có vẻ cũng đã lấy lại được đà tăng trưởng của các năm trước và cũng vẫn được đánh giá khá tích cực bởi các báo cáo của các tổ chức trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy, Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng trưởng kể từ Quý 3/2020.

COVID-19 CƠ HỘI ĐỂ TÁI KHẲNG ĐỊNH THƯƠNG HIỆU “VIỆT NAM” - Ảnh 1.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,61% (yoy) trong Quý 2/2021, cao hơn mức tăng trưởng cùng kỳ năm 2020 (0,36%, yoy). Trong 6 tháng đầu năm 2021, khu vực nông, lâm và thủy sản tăng 3,82% , khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,36% và khu vực dịch vụ tăng 3,96% so với cùng kỳ năm ngoái. So với cùng kỳ năm 2020, Quý 2/2020 ghi nhận ngành nông nghiệp tăng 3,83%, lâm nghiệp tăng 4,1% và thủy sản tăng 4,96%. Trong đó, ngành thủy sản tăng trưởng mạnh mẽ trở lại nhờ vào sự hồi phục về cầu của các thị trường nước ngoài. Ngành nông nghiệp tiếp tục đạt mức tăng trưởng mạnh của Quý 1/2021 dựa trên điều kiện thời tiết thuận lợi cùng với việc kiểm soát được các loại dịch bệnh ở lợn và dịch cúm gia cầm giúp năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá.

Trong Quý 2/2021, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,28% (yoy), thấp hơn mức của Quý 2/2019 nhưng cao hơn tốc tăng của năm 2020. Đối với các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế trong Quý 2/2021 với tốc độ tăng trưởng là 13,84% (yoy), và chỉ thấp hơn cùng kỳ các năm 2011 và 2018. Mặt khác, do sản lượng khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tiếp tục giảm trong Quý 2/2021 nên ngành khai khoáng suy giảm 4,68% (yoy). Do ảnh hưởng của các biện pháp phòng chống dịch bệnh nên ngành xây dựng tăng 4,82% (yoy), mức tăng này chỉ cao hơn Quý 2/2020 (4,59% (yoy)) trong giai đoạn 2014 - 2020.

Hoạt động bán lẻ, kinh doanh dịch vụ trên đà phục hồi. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Quý 2/2021 ước tính đạt 1.177,6 nghìn tỷ đồng, giảm 8,4% so với quý trước và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.463,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3,55% (cùng kỳ năm 2020 giảm 5,77%). Tận dụng các kênh, nền tảng mua sắm trực tuyến, các doanh nghiệp bán lẻ có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân một cách dễ dàng. Vì thế ngành bán lẻ không chịu ảnh hưởng tiêu cực khi dịch bệnh bùng phát trở lại trong cuối Quý 2.

Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam lại chịu rất nhiều khó khăn, thách thức đến từ đợt bùng phát dịch COVID lần thứ 4 bắt đầu từ Quý 2 năm 2021. Do vậy, triển vọng kinh tế Việt Nam nửa cuối năm 2021 phụ thuộc rất nhiều vào các nỗ lực thực hiện đồng bộ các biện pháp khống chế dịch bệnh COVID, phát triển vắc xin trong nước và tận dụng các mối quan hệ chiến lược để tiến hành ngoại giao vắc xin, ưu tiên đảm bảo nguồn cung và tổ chức tiêm vắc xin phòng COVID - 19 nhanh và hiệu quả cho đồng thời khối doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lẫn các nhóm hộ kinh doanh đang chịu nhiều ảnh hưởng bởi các hạn chế và giãn cách xã hội ở khắp cả thành phố lớn và trung tâm kinh tế trọng điểm. Chính vì vậy, trong kịch bản cơ sở mà VEPR đã đưa ra, với giả định rằng dịch bệnh sẽ được kiểm soát vào cuối Quý 3/2021, việc tiêm chủng được triển khai nhanh chóng và đạt miễn dịch cộng đồng vào Quý 2/2022, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 4,5 - 5,1%, là mức giảm từ 1 - 1.5 điểm so với các dự báo ở nửa đầu năm trước đó.

COVID-19 CƠ HỘI ĐỂ TÁI KHẲNG ĐỊNH THƯƠNG HIỆU “VIỆT NAM” - Ảnh 2.

Về ngắn hạn của năm 2021, động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo tiếp tục đến từ xuất khẩu (nhất là xuất khẩu của khối FDI). Với việc dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam (mặc dù có chậm lại do tác động của đại dịch) thì xuất khẩu của khu vực này vẫn đóng vai trò quan trọng bậc nhất cho tăng trưởng Việt Nam trong nửa cuối 2021 và trong nhiều năm tới. "Việt Nam là quốc gia nằm trong Top đầu của khu vực ASEAN được doanh nghiệp Nhật Bản lựa chọn đầu tư trong thời gian tới". Đây là minh chứng cho những kết quả chống dịch của Việt Nam đang tạo niềm tin rất lớn cho doanh nghiệp nước ngoài trong bối cảnh hoạt động sản xuất được duy trì, hạn chế người lao động mất việc, chuỗi cung ứng được đảm bảo. Trong khi đó, đóng góp trực tiếp của đầu tư công vào tăng trưởng sẽ không cao như năm 2020 do hạn hẹp về nguồn lực tài khóa.

Trong dài hạn, để phục hồi sau dịch bệnh và phục hồi đà tăng trưởng, Việt Nam cần có chiến lược nhằm tái định vị nền kinh tế trên cả phương diện cải thiện năng lực cạnh tranh và tận dụng lợi thế so sánh và các hiệp định thương mại tự do FTAs kiểu mới đã ký kết. Thứ nhất, cần đẩy mạnh cải thiện các hạn chế về môi trường kinh doanh và khắc phục các rào cản để nâng cao thứ hạng trong bộ chỉ số NLCT 4.0 (WEF), cải thiện môi trường kinh doanh địa phương của doanh nghiệp thông qua các trụ cột của chỉ số PCI cấp tỉnh. Để có thể thực sự nâng cao nội lực của nền kinh tế là cơ sở để tăng trưởng bền vững, các chính sách hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân cần tiếp tục được đẩy mạnh. Thứ hai, Việt Nam cần tận dụng được thương mại và đầu tư để nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong tương lai. Để làm được điều này, cần thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của các FTAs trong việc cải thiện lợi thế so sánh và giá trị gia tăng của Việt Nam trong GVC, đồng thời tạo môi trường để các FTAs phát huy hiệu quả.

Đại dịch COVID - 19 thách thức sức bền hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam

Năm 2020, nhằm ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19, nhiều quốc gia đã phải thực hiện các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội, khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, hàng triệu người lao động sẽ phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, giảm giờ làm và tiền lương, trong đó đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là tầng lớp lao động thu nhập thấp với việc làm bấp bênh. Tại các nước ở khu vực châu Âu, tình trạng thất nghiệp đã kéo dài suốt nhiều tháng trong năm vừa qua. Chỉ tính riêng Quý III/2020, nước Anh có tới 314 nghìn người thất nghiệp, tăng 195 nghìn người so với cùng kỳ năm 2019 và tăng 181.000 người so với Quý II/2020. Đây là mức cắt giảm việc làm cao kỷ lục kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 tại quốc gia này, đưa tỷ lệ thất nghiệp Quý III/2020 lên 4,8%, mức cao nhất trong vòng 4 năm qua. Trong khi đó ở Pháp, Cơ quan thống kê quốc gia - INSEE cho biết, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng từ 7,1% trong Quý II lên 9% trong Quý III, mức cao nhất kể từ khi dữ liệu được thu thập vào năm 1975. Còn ở Đức có nhiều thời điểm có tỷ lệ thất nghiệp vượt ngưỡng ổn định, khoảng 5% mà quốc gia này đã duy trì được kể từ tháng 8/2018...

Tại Việt Nam, ngay khi dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng ban hành Nghị quyết 42/NQ-CP và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, và thực hiện gói hỗ trợ an sinh 62.000 tỷ đồng cho những đối tượng gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch COVID -19 là người có công, bảo trợ xã hội, người thuộc hộ nghèo và cận nghèo, nhóm lao động tự do… Bên cạnh gói hỗ trợ chung của Chính phủ trên phạm vi cả nước, trên cơ sở tình hình thực tế, một số địa phương đã thông qua chính sách hỗ trợ cho người dân trên địa bàn. Điển hình là vào tháng 9/2020, ngoài kinh phí hỗ trợ cho những đối tượng hưởng trợ cấp theo Nghị quyết 42/NQ-CP, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng đã thông qua chính sách hỗ trợ cho những đối tượng đặc thù gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trong tháng 8 và tháng 9/2020 bởi đợt dịch bùng phát trở lại vào cuối tháng 7/2020, khiến nhiều doanh nghiệp phải cho người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương. Ngoài ra, trong bối cảnh dịch diễn biến phức tạp, năm 2020 Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện giải ngân 31,6 tỷ đồng cho 207 doanh nghiệp để trả lương cho 8.529 người lao động bị ngừng việc…

Bên cạnh đó, theo tinh thần Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 4-3-2020 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19, cũng như các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng và các cơ quan Trung ương gần đây, các cơ quan chức năng đã và đang triển khai nhiều gói hỗ trợ và biện pháp thiết thực để doanh nghiệp tăng sức đề kháng, từng bước bình thường hóa hoặc điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho phù hợp, tăng cường chuyển đổi số và xúc tiến thương mại…

Với sự quay trở lại của dịch bệnh COVID - 19 nửa đầu năm 2021 với nhiều biến chủng phức tạp hơn, tình hình kinh tế Việt Nam nói chung và môi trường kinh doanh - đầu tư của doanh nghiệp và cả hộ kinh doanh tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, nhất là nền kinh tế nước ta có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường, dịch bệnh và các biện pháp ứng phó của các Quốc gia trong đó có Việt Nam đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng tới các ngành thương mại, du lịch, vận tải và xuất nhập khẩu, doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất, thu hẹp quy mô và tạm dừng hoạt động. Thu nhập, lao động, việc làm bị ảnh hưởng, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Chính vì vậy, hệ thống an sinh xã hội với các chính sách bảo hiểm, trợ cấp xã hội được các chuyên gia nhận định sẽ vẫn là một trong những công cụ hữu ích để bình ổn xã hội, góp phần cải thiện đời sống cho người dân.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hỗ trợ an sinh xã hội cho người lao động bị mất việc làm, nhưng trên thực tế triển khai của năm 2020, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người lao động cho thấy chưa có nhiều hiệu quả trong thực tế. Các gói hỗ trợ an sinh xã hội thời gian vừa qua đa phần là nhóm lao động thuộc khối bảo trợ, lao động là người có công, hộ nghèo. Chính vì vậy, theo các chuyên gia kinh tế đến từ VEPR ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp (DN) phải tạm dừng hoạt động và hỗ trợ các DN còn hoạt động. "Các chính sách an sinh xã hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và cần phải được tiếp tục triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có"- báo cáo của VEPR nhấn mạnh. Đặc biệt, việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực phi chính thức, bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ DN cũng cần tiếp tục được thực hiện theo hướng khẩn trương, tập trung, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo sát với nhu cầu của DN. Việc khoanh, ngưng, miễn giảm chi phí tài chính cho DN như lãi vay, tiền thuê đất cần tiếp tục được triển khai.

Về mặt dài hạn, theo Ngân hàng thế giới (WB) nhận định hệ thống an sinh xã hội sẽ ngày càng trở thành bộ phận cốt lõi của chính sách kinh tế, chứ không chỉ của chính sách xã hội của Việt Nam. Hệ thống an sinh xã hội sẽ ngày càng cần phải là một hệ thống khuyến khích tiết kiệm quốc gia để hỗ trợ tăng trưởng bao trùm, ứng phó với dân số già, thúc đẩy thị trường lao động hiệu quả hơn, quản lý rủi ro cấp quốc gia và cấp hộ gia đình. Do vậy, theo báo cáo kinh tế thường niên năm 2021 của VEPR thì với diễn biến phức tạp của tình hình bệnh dịch hiện nay, các chuyên gia kinh tế cho rằng quá trình phục hồi kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào: i) tốc độ và quy mô tiêm chủng vắc-xin; (ii) hiệu quả/ phản ứng phụ của các biện pháp phòng chống bệnh dịch; (iii) các gói hỗ trợ và thúc đẩy đảm bảo an sinh xã hội, việc làm và thúc đẩy hiệu quả tăng trưởng ở trong nước.

"Văn hóa là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển bền vững"

Đó là một trong những kết luận được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh tại cuộc họp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao thời gian qua.

Có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên kết tinh và lắng đọng được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống yêu nước và lòng dũng cảm, khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa tình, sự cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến như một đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hòa bình và phồn vinh chung trên toàn cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính bước ngoặt của Việt Nam, sự "va đập" giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân chủ, hiện đại, nhân văn, khai phóng, khoan dung, rộng mở...

Nhận diện được đặc tính, phẩm chất cơ bản này của văn hóa Việt Nam trong truyền thống và hiện đại sẽ có ý nghĩa tích cực, để chuyển hóa thành "sức mạnh mềm" của đất nước, tạo sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế. Hiện nay, các giao dịch thương mại toàn cầu về văn hóa ngày càng gia tăng đã chứng minh, văn hóa chính là một loại "sức mạnh mềm", có sức truyền bá lớn lao vượt ra ngoài biên giới, thúc đẩy sự đối thoại, hiểu biết về văn hóa giữa các quốc gia. Việc phát triển mạnh mẽ các sản phẩm, dịch vụ văn hóa góp phần tích cực cho việc tuyên truyền, đề cao các giá trị của văn hóa, đất nước, con người Việt Nam nói riêng và đóng góp cho sự đa dạng văn hóa, cho sự phát triển bền vững của nhân loại nói chung. Tuy hoạt động văn hóa ở Việt Nam ngưng trệ, nhưng không đóng băng, các nghệ sĩ dần dịch chuyển lên mạng xã hội và thêm nhiều sức ảnh hưởng trong khu vực. Đồng thời, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của Nhân dân và toàn xã hội. Sự nghiệp văn hóa, xây dựng con người Việt Nam, gia đình văn hóa trong những năm gần đây đã có bước trưởng thành hơn, đạt được nhiều thành tựu, nổi bật là: Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng được nâng cao về chất lượng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của nhân dân. Nhiều di sản có giá trị được thế giới công nhận, được quan tâm bảo vệ và ngày càng phát huy giá trị. Đời sống văn hóa ở cơ sở có bước phát triển.

Hội nhập và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, giúp quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Hiện nay, Việt Nam đang tập trung nguồn lực thỏa đáng, phát triển các lĩnh vực nghệ thuật, nhất là các loại hình nghệ thuật thúc đẩy phát triển nền văn hóa dân tộc và phát huy giá trị con người Việt Nam. Chủ động, sáng tạo triển khai các giải pháp để duy trì sản xuất, kinh doanh, không làm đứt gãy các chuỗi sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở dịch vụ du lịch, duy trì ổn định kinh tế- xã hội. Bảo đảm tuân thủ giải pháp phòng, chống dịch và tích cực ứng dụng các công nghệ rộng rãi, chặt chẽ để duy trì ổn định hoạt động du lịch, đảm bảo thích ứng với điều kiện dịch bệnh và sớm phục hồi sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh hậu COVID-19. Chú trọng phát triển các lĩnh vực như du lịch thông minh… Đổi mới nội dung, đa dạng phương thức quảng bá, xúc tiến du lịch và xây dựng thương hiệu du lịch Quốc gia…

An ninh quốc phòng vẫn là điểm tựa vững chắc trong phòng chống dịch bệnh COVID - 19 hiện nay

Quan điểm về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) là bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng, là "kim chỉ nam" cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.

COVID-19 CƠ HỘI ĐỂ TÁI KHẲNG ĐỊNH THƯƠNG HIỆU “VIỆT NAM” - Ảnh 3.

Sư đoàn 5, Quân khu 7 xuất quân hỗ trợ TP. HCM chống dịch. Ảnh: TTXVN

Trong quá trình lãnh đạo, nhận thức, tư duy của Đảng về quốc phòng, BVTQ không ngừng được phát triển, đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng,  góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới. Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trong để xây dựng và BVTQ. Quán triệt quan điểm của Đảng, những năm qua, chúng ta đã tập trung phát triển, củng cố các tiềm lực chính trị-tinh thần, kinh tế, khoa học và công nghệ, quân sự, đạt những thành tựu quan trọng: Tiềm lực quốc phòng (TLQP) đất nước được củng cố gắn liền với quy hoạch tổng thể của quốc gia, của các địa phương. Việc kết hợp kinh tế với bảo đảm quốc phòng ngày càng chặt chẽ; thực hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế, tạo tiềm lực, cơ sở vật chất, góp phần tăng cường quốc phòng. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; triển khai xây dựng, phát huy tốt vai trò nòng cốt của các khu kinh tế quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế-xã hội ở địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng được triển khai rộng rãi, đi vào nền nếp và có hiệu quả thiết thực; tạo chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm, hành động của cả hệ thống chính trị và toàn dân đối với hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và BVTQ trong tình hình mới. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đi đôi chủ động phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả, mà còn tích cực phối hợp các địa phương, lực lượng chức năng giúp nhân dân phòng, chống dịch bệnh ở mức cao nhất. Thông tin từ Cục Quân y (Tổng cục Hậu cần) - Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 Bộ Quốc phòng cho biết: Tính đến cuối tháng 5/2021, toàn quân đã triển khai 175 điểm cách ly, tiếp nhận, cách ly được hơn 217 nghìn người, đã hoàn thành cách ly hơn 201 nghìn người; hiện nay đang cách ly gần 16 nghìn người tại 72 điểm.

Trên tuyến biên giới thường xuyên duy trì hơn 1.826 tổ chốt chặn, với gần 12 nghìn người được triển khai; tăng cường các phương tiện hỗ trợ kiểm soát biên giới trên bộ, trên biển. Ngành quân y đã xây dựng kế hoạch sẵn sàng ứng phó năm cấp độ dịch. Toàn quân kích hoạt hệ thống chống dịch ở mức cao nhất; các đơn vị đã rà soát, chuẩn bị các điểm cách ly sẵn sàng tiếp nhận cách ly tập trung các ca F1 trong tình huống dịch bệnh bùng phát; chuẩn bị các bệnh viện dã chiến sẵn sàng tiếp nhận bệnh nhân ứng phó kịch bản với mức cao nhất trong cộng đồng. Tình hình dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp, bên cạnh việc phát huy vai trò của lực lượng vũ trang địa phương, Bộ Quốc phòng sẽ tăng cường lực lượng, phương tiện cơ động, hỗ trợ các địa phương sớm đẩy lùi đợt dịch COVID-19. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tiếp tục tập trung phòng, chống dịch COVID-19; tăng cường lực lượng trên tuyến biên giới; triển khai lực lượng, phương tiện hỗ trợ kịp thời các địa phương ngăn ngừa dịch bệnh lây lan, giải quyết dứt điểm các ổ dịch hiện có, nhanh chóng ổn định tình hình.

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, với tinh thần "chống dịch như chống giặc", thời gian tới lực lượng quân đội, nhất là đội ngũ cán bộ, nhân viên quân y, biên phòng phát huy tinh thần xung kích, đi đầu trong mọi nhiệm vụ, tăng cường phối hợp các địa phương, lực lượng chức năng, giúp nhân dân đối phó với dịch COVID-19, góp phần tỏa sáng hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Cùng với quốc phòng, an ninh Việt Nam cũng tạo niềm tin vững chắc không chỉ với nhân dân mà còn với bạn bè khắp nơi trên thế giới. COVID-19 đã bùng phát trở lại và hết sức nguy hiểm, lây lan rất nhanh ra nhiều địa phương, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế; tình trạng người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài nhập cảnh trái phép vào trong nước vẫn diễn ra, mang theo mầm bệnh, là một trong những nguyên nhân làm bùng phát dịch COVID-19.

Để chủ động giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và tích cực tham gia công tác phòng, chống dịch COVID-19, ngăn chặn người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, Bộ Công an đã thực hiện quyết liệt có hiệu quả các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, các công điện, phương án, kế hoạch chỉ đạo của Bộ Công an về phòng, chống dịch COVID-19; phối hợp với các lực lượng chức năng quản lý biên giới, tăng cường kiểm soát, ngăn chặn tình trạng người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài nhập cảnh trái phép về nước; tổ chức truy vết đối với các trường hợp nghi mắc COVID-19 theo tinh thần truy vết nhanh, sớm khoanh vùng, phục vụ công tác tổ chức cách ly, dập dịch, không để dịch COVID-19 lây lan rộng ra cộng đồng; chủ động xây dựng kế hoạch bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị, nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng dịch theo nguyên tắc "bốn tại chỗ"; tăng cường công tác phòng chống dịch COVID-19 tại các cơ sở giam, giữ. Đặc biệt chú trọng phòng, chống dịch bệnh trong Công an nhân dân, với phương châm "Mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an là một chiến sĩ tiên phong tuyến đầu tham gia phòng, chống dịch; mỗi đơn vị, tổ chức trong Công an là pháo đài vững chắc, không bị lây nhiễm dịch COVID-19".

Như vậy, có thể thấy trong bối cảnh thế giới trải qua một năm đầy thách thức và biến động do đại dịch COVID-19, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép, đó là vừa chống dịch COVID-19, đồng thời vẫn giữ được môi trường ổn định, phát triển kinh tế, xã hội. Đây là thành tích lớn lao của đất nước trong năm 2020. Và chính những thành quả ấn tượng mà Việt Nam đạt được trong thực hiện "mục tiêu kép" ở trong nước và đóng góp hiệu quả trên trường quốc tế đã giúp Việt Nam nâng tầm vị thế, tạo được niềm tin trong khu vực và toàn cầu, một lần nữa khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực chủ động và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Theo tinh thần Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 4-3-2020 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19, cũng như các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng và các cơ quan Trung ương gần đây, các cơ quan chức năng đã và đang triển khai nhiều gói hỗ trợ và biện pháp thiết thực để doanh nghiệp tăng sức đề kháng, từng bước bình thường hóa hoặc điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho phù hợp, tăng cường chuyển đổi số và xúc tiến thương mại

Bài viết đăng trên ấn phẩm đặc biệt Tạp chí TT&TT Kỷ niệm 76 năm quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 -2/9/2021)

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
COVID-19 - cơ hội để tái khẳng định thương hiệu "Việt Nam"
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO