Thế giới đã và đang trải qua những biến đổi to lớn, trong đó có chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0. Đổi mới công nghệ cũng đặt ra không ít những thách thức do sự gia tăng tính phân đoạn trong quy trình sản xuất, làm xuất hiện các công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng mới. Ngoài ra, thế giới việc làm cũng đang có những sự thay đổi sâu sắc trước những tác động của biến đổi khí hậu, của xã hội già hóa, của dịch bệnh và đặc biệt là đại dịch COVID-19 đang diễn ra hiện nay.
Thúc đẩy hợp tác đa phương, đa chiều, thích ứng với sự thay đổi
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, trong 10-15 năm tới khoảng 1/3 công việc hiện tại sẽ bị thay thế bởi máy móc, trí tuệ nhân tạo; khoảng 40% lao động toàn cầu sẽ phải bổ sung kỹ năng mới để đáp ứng yêu cầu công việc. Tỷ lệ này ở ASEAN còn cao hơn. Một nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ở 5 nước ASEAN dự báo 56% việc làm trong các nước này có thể bị ảnh hưởng nặng, thậm chí thay thế bởi tự động hóa trong vài thập kỷ tới.
Đặc biệt, từ đầu năm 2020 tới nay, đại dịch COVID-19 đã tác động tới 2,7 tỷ lao động, chiếm khoảng 81% lực lượng lao động trên toàn thế giới. Riêng một nghiên cứu chưa đầy đủ, vào năm 2020 đã có 480 triệu việc làm bị mất, con số này trong khu vực ASEAN là trên 42 triệu.
Trước khi xuất hiện đại dịch COVID-19, trên thế giới, trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và ASEAN đã có rất nhiều diễn đàn ở các cấp độ bàn về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0. Những tác động của đại dịch COVID-19 không chỉ làm đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lao động trong các ngành sử dụng nhiều lao động, lao động gia đình, lao động đơn lẻ, thậm chí lao động tự do kiếm sống qua ngày, mà còn dẫn đến nguy cơ một bộ phận người dân sẽ bị bần cùng hóa và một bộ phận trẻ em bị tước đi cơ hội phát triển.
Đại dịch COVID-19 đặt ra yêu cầu phải nhìn nhận lại thói quen làm việc, tiêu dùng để có cơ chế, chính sách tổ chức lại cho phù hợp hơn. Ở những nước nào người dân có thói quen tích lũy và có tính tương trợ cộng đồng cao thì khả năng thích ứng dường như tốt hơn với những giải pháp giãn cách xã hội dài ngày.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như mối đe dọa thường xuyên của các yếu tố an ninh phi truyền thống, các nước ASEAN càng phải thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác đa phương, đa chiều, thiết lập các mạng lưới, cơ chế kết nối rất linh hoạt giữa các Chính phủ với nhau, với các tổ chức, doanh nghiệp và giữa mọi người dân.
Mọi chính sách, trong đó có chính sách lao động, cần được hoạch định dựa trên quy mô và tầm nhìn, không chỉ bó hẹp ở tổ chức, cộng đồng, quốc gia mà phải mở ra ở tầm khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, cần đề cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển nói chung và phát triển nguồn nhân lực. Những năm gần đây chúng ta thấy ngày càng rõ trách nhiệm xã hội ngày càng lớn của cộng đồng doanh nghiệp, không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp xã hội.
Các doanh nghiệp không chỉ tham gia phát triển nguồn nhân lực cho chính mình còn tham gia vào quá trình đào tạo cho cả cộng đồng. Bên cạnh lĩnh vực giáo dục, đào tạo, nhiều doanh nghiệp tư nhân còn tham gia vào đầu tư chăm sóc con người theo nghĩa rộng.
Ngay trong đợt chống dịch COVID-19 vừa qua cho thấy, mặc dù chịu thiệt hại không nhỏ do dịch bệnh nhưng cộng đồng doanh nghiệp đã cùng chung sức để đóng góp thiết thực vào công tác phòng, chống dịch ở nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Các hoạt động ở các cấp độ trong từng quốc gia, vừa các nước ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác chiến lược, đối tác hợp tác đều rất chú trọng vấn đề này, và đã có nhiều hoạt động, sáng kiến cụ thể như: Xây dựng Khung tham chiếu trình độ ASEAN, hay tạo ra các không gian giáo dục đại học để sinh viên các nước ASEAN có thể qua lại với nhau…
Những nỗ lực như vậy cần được tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ, liên tục để có thể thực hiện thành công Tuyên bố ASEAN về Phát triển Nguồn nhân lực trong một thế giới công việc đang thay đổi, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất mới của xã hội tương lai.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam
Nhiều chuyên gia nhận định, trong bối cảnh hội nhập, nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng của các nước trong khu vực ASEAN tiếp tục tăng cao. Thống kê cho thấy, số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia đã đạt 3.000 lao động vào năm 2019, tăng lên 5.000 lao động trong năm 2020 và kỳ vọng sẽ tăng lên trên 12.000 lao động vào năm 2025.
Trong khi đó, với xu thế tiếp tục thúc đẩy mở rộng thị trường và tăng cường hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…, số lao động Việt Nam đến các quốc gia này vẫn tiếp tục tăng dần qua các năm, đã có trên 90.000 lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan; 94.000 lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản; số lao động Việt Nam tới làm việc tại Hàn Quốc tăng nhẹ khoảng 5.000-6.000 lao động mỗi năm trong giai đoạn từ 2018-2020.
Từ thực tế nêu trên, để hội nhập với khu vực và quốc tế, Việt Nam phải thực sự coi đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đầu tư cho phát triển, hội nhập và do vậy, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, dạy nghề có ý nghĩa quyết định đối với năng lực cạnh tranh của lao động và khả năng dịch chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN. Để làm được điều đó, các giải pháp mà chúng ta cần phải tiến hành như:
Khi đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài luôn phải xác định là một giải pháp lâu dài, song phải xây dựng chiến lược theo lộ trình tiến tới đào tạo và xuất khẩu lao đông có tay nghề, đặc biệt là lao động có tay nghề cao làm tăng giá trị sức lao động.
Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện về luật pháp, chính sách liên quan tới vấn đề xuất khẩu lao động phù hợp với cam kết và quy định quốc tế và ASEAN. Cần bổ sung và sửa đổi những cơ chế, chính sách còn thiếu hoặc không phù hợp.
Bên cạnh đó, cần tăng cường quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động và quản lý lao động nhập cư vào Việt Nam, hạn chế tối đa lao động bất hợp pháp. Thiết lập hệ thống quản lý người lao động di cư một cách chặt chẽ. Việc quản lý chủ yếu tập trung kiểm soát người lao động, mối quan hệ trong quan hệ lao động, bảo đảm phát huy tác động tích cực, không làm ảnh hưởng tới chính trị - xã hội của các nước tham gia.
Cần sớm đổi mới cơ cấu giáo dục nghề nghiệp, gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp.
Ngoài ra, cần xây dựng chính sách thu hút nhân tài, nâng cao chất lượng lao động trong nước và xuất khẩu. Nghiên cứu, đàm phán song phương để được công nhận tương đương trình độ có tay nghề của lao động Việt Nam với lao động nước sở tại và AEC. Đẩy mạnh hình thức lao động thực tập sinh tại các thị trường để không ngừng tăng nhanh số lượng và chất lượng lao động có tay nghề bổ sung vào thị trường lao động nội địa trong tương lai.
Để tạo điều kiện tốt cho dịch chuyển lao động nội khối, cần chủ động trong việc bảo vệ người lao động di cư, xóa bỏ phân biệt đối xử (lao động trong nước, nước ngoài), phổ cập an sinh xã hội đầy đủ và tạo các mạng lưới tiếp nhận và xử lý các vấn đề của người di cư. Phát huy vai trò công đoàn trong việc phối hợp bảo vệ người lao động nhập cư.