Khởi nghiệp

Kết quả ĐMST chưa xứng tầm với vai trò của các viện, trường đại học

NK 16:23 10/03/2023

Kết quả thương mại hoá, đổi mới sáng tạo (ĐMST) hiện nay vẫn chưa xứng tầm với vai trò của các viện nghiên cứu và trường đại học (ĐH) trong hệ sinh thái bởi những rào cản liên quan đến tư duy, chính sách. 

bieutuongdoimoisangtao.jpg
Những rào cản liên quan đến tư duy, chính sách khiến kết quả thương mại hoá, ĐMST hiện nay vẫn chưa xứng tầm với vai trò của các Viện nghiên cứu và trường đại học trong hệ sinh thái.

Nhiều rào cản khiến kết quả thương mại hoá, ĐMST còn hạn chế

Theo ông Phan Tiến Dũng, Trưởng ban Ứng dụng và Triển khai công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KHCN) Việt Nam, dù việc thương mại hoá kết quả nghiên cứu của các viện và trường ĐH mới đang bắt đầu nhưng kết quả vẫn còn rất hạn chế. Ngay cả Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam cũng đang cố gắng chủ động thúc đẩy những hoạt động thương mại hoá để có được một số kết quả. “Mặc dù vậy, những thành tích đạt được vẫn chưa xứng tầm với vai trò của các viện nghiên cứu và trường ĐH”, ông Dũng bày tỏ.

Ông Dũng cho rằng, vướng mắc đầu tiên liên quan đến chính sách. Bởi vì, đa phần các viện, trường ĐH hiện giờ đều là các đơn vị công lập, kinh phí hoạt động, các đề tài nghiên cứu KHCN đều sử dụng ngân sách và phụ thuộc vào các quy định của Nhà nước. Trong khi các quy định hiện nay có nhiều điểm chưa phù hợp nên trở thành rào cản.

Khó khăn tiếp theo là tư duy cũ, tức là KHCN mang tính nghiên cứu, chỉ mới đề cập đến ĐMST và thương mại hoá gần đây. Điều này phụ thuộc vào từng đơn vị trong việc nâng cao, thay đổi nhận thức cho các nhà khoa học. “Trước những hạn chế này, nếu chính sách có sự thay đổi phù hợp thì sẽ tạo ra động lực cho các nhà khoa học dấn thân vào thúc đẩy thương mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học”, ông Dũng nói.

Về nguồn thu từ các hoạt động thương mại hoá, theo ông Dũng, với Viện Hàn lâm KHCN, các dịch vụ KHCN như thương mại hoá để chuyển giao công nghệ hoặc tạo ra startup sẽ rất khó thành công. Hầu hết đều triển khai theo đơn đặt hàng của khách hàng hoặc do họ nhìn thấy kết quả nghiên cứu, bằng sáng chế, các giải pháp hữu ích mà Viện đăng ký rồi tìm đến hợp tác.

Trong 2 hình thức này, nếu các doanh nghiệp tham gia đặt hàng, đặt đề bài thì tỷ lệ thành công của dự án sẽ cao hơn. Nhưng số lượng này rất ít và đây cũng là một rào cản về nhận thức mà doanh nghiệp cần thay đổi. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ để các công ty tham gia đặt hàng cho viện, trường ĐH.

Về lý do doanh nghiệp ít đặt hàng cho các viện, trường ĐH, ông Dũng cho rằng do đa phần các đơn vị đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, khả năng tài chính và năng lực về KHCN còn hạn chế, chưa kể việc thiếu thông tin về các kết quả KHCN nghiên cứu. Ngoài ra, một số các doanh nghiệp thường mua các công nghệ cũ về vận hành để giảm chi phí hoặc không phát hiện ra vấn đề của mình để đặt đầu bài cho các viện, trường ĐH.

Bên cạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Viện cũng nhận được những đề nghị hợp tác của các đơn vị khác nhưng nhiều nhất vẫn là khối doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước cả trung ương và địa phương, thậm chí có cả những tập đoàn lớn nhưng chưa có kết quả nào thực sự nổi bật. “Viện Hàn lâm KHCN còn ký hơp tác với hơn 30 bộ ngành, tỉnh thành để cùng thúc đẩy cách giải quyết vấn đề của mỗi địa phương”, ông Dũng chia sẻ thêm.

Để tiếp cận các khách hàng mục tiêu, Viện đã tham gia rất nhiều sự kiện của quốc gia và thường đóng vai trò nổi bật trong các hoạt động đó. Kênh tiếp theo là đăng tải những kết quả có khả năng thương mại hoá lên trang web của Viện Hàn lâm KHCN. Đồng thời, Viện còn tổ chức các sự kiện xúc tiến mang tính chuyên ngành đến các khu vực có nhu cầu, thông qua các nhà khoa học trong lĩnh vực chuyên môn và kết nối với các doanh nghiệp địa phương để triển khai việc đó.

b0957e97-01b9-4c0e-b380-8f010df812d7.jpg
Ông Phan Tiến Dũng: Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đặt hàng công nghệ đối với các viện, trường đại học.

Có thể tìm ra những vấn đề chung và đặt đầu bài cho các viện, trường ĐH

Cũng theo ông Dũng, việc doanh nghiệp đặt hàng ngay từ đầu có tỷ lệ thành công cao hơn so với việc ứng dụng những sáng chế sẵn có là do đa phần các kết quả khoa học/sáng chế thường không khớp ngay so với yêu cầu của các đơn vị. Chưa kể, khi các doanh nghiệp đọc, nghiên cứu các sáng chế cũng không thể hiểu được nó sẽ giúp ích và vận dụng vào công ty mình như thế nào.

Do đó, để hai bên có thể ngồi trao đổi được với nhau thì cũng cần một người/đơn vị nào đó am hiểu cả vấn đề khoa học, doanh nghiệp để đưa ra những điều chỉnh phù hợp.

Bởi vậy, Sở KHCN thường làm việc với các bên liên quan và kết nối với nhau, từ đó sẽ đặt bài toán cho Sở KHCN và Viện sẽ đưa ra các câu trả lời phù hợp thông qua các giải pháp/sáng chế sẵn có. “Nếu để một doanh nghiệp chưa có quan hệ trước đó trực tiếp làm việc với các viện để tìm giải pháp sẵn có thì sẽ rất khó khăn cho cả hai bên để hợp tác”, ông Dũng chia sẻ.

Chưa kể đến, việc kết nối giữa doanh nghiệp và Viện cũng mất rất nhiều thời gian. Đồng thời, do hai luồng suy nghĩ khác nhau nên cần thời gian để hiểu, xây dựng lòng tin. Nếu thông qua các lần hợp tác mà thành công thì các lần sau sẽ triển khai rất nhanh chóng.

Bên cạnh vấn đề chi phí, Viện cũng không làm theo từng nhu cầu của từng doanh nghiệp bởi nguồn lực cũng có hạn. Do đó, ở các nước có hiệp hội ngành nghề, họ sẽ đưa ra vấn đề chung nhất mà mọi doanh nghiệp trong lĩnh vực gặp phải và có kinh phí để hỗ trợ giải quyết bài toán đó. Chỉ khi đó, các bên mới có thể dùng nguồn lực của mình để cùng giải quyết bài toán.

Ví dụ như Hiệp hồi nuôi trồng hải sản hay ngành nghề rau hoa quả, họ sẽ phải xác định xem thị trường đang cần gì và đang vướng mắc những vấn đề nào, tác động lớn đến các doanh nghiệp thành viên của mình. Từ đó, đặt hàng những bài toán, để khi áp dụng thì sẽ cùng tác động đến các doanh nghiệp.

"Bởi vì, không một đơn vị nào có thể phục vụ được từng vấn đề nhỏ lẻ của doanh nghiệp cũng như không một công ty nào có đủ chi phí để giải quyết vấn đề lớn đó được. Chưa kể, với những bài toán lớn, Nhà nước có thể hỗ trợ thêm một phần kinh phí để tạo ra sự tin tưởng của doanh nghiệp cùng tham gia, và kết nối với các nhà khoa học”, ông Dũng cho biết.

Nhà nước cần thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia “đặt hàng”

Tuy nhiên, có một vấn đề hiện nay là các chủ thể trong hệ sinh thái ĐMST mở đều có mặt đầy đủ từ Chính phủ, quỹ đầu tư, tập đoàn, doanh nghiệp lớn, viện nghiên cứu… nhưng lại thiếu sự ràng buộc, cam kết với nhau như một tổ chức, dẫn đến việc hoạt động thiếu hiệu quả. Do đó, cần phải xây dựng một nền tảng nhằm thu hút các bên cùng tham gia, với những quy định rõ ràng để các bên đều phải có trách nhiệm hoạt động, xây dựng hệ sinh thái, thay vì tình trạng như hiện nay.

Để làm được điều này, theo ông Dũng, phải cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước để thu hút các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào hệ sinh thái cũng như có các chính sách định hướng ban đầu.

Về giải pháp trọng tâm dành cho các viện nghiên cứu nhằm thúc đẩy được thương mại hóa trong thời gian tới, ông Dũng cho rằng, đầu tiên, cơ quan quản lý cần hoàn thiện và xây dựng chính sách phù hợp. Tiếp theo, cần nâng cao nhận thức cho tất cả lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu về ĐMST.

“Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đặt hàng công nghệ, thay vì chỉ bỏ một số tiền nhỏ với tư tưởng, nếu được thì tốt, còn thất bại thì cũng không ảnh hưởng như hiện nay”, ông Dũng khẳng định.

Còn đối với việc thương mại hoá cho các công trình nghiên cứu, cần có chính sách ưu tiên về chia sẻ lợi nhuận cho các nhà khoa học, thì mới có thể tạo ra động lực để họ nghiên cứu các sản phẩm ứng dụng phục vụ sát nhất nhu cầu thị trường./.

Những thông tin về xu hướng thị trường & đổi mới sáng tạo mới nhất giúp DN bứt phá trong năm 2023 hiện đã có trong Báo cáo Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo Mở Việt Nam năm 2022. Đọc ngay tại đây: http://ldp.to/OI22-News

Báo cáo được thực hiện bởi Nền tảng kết nối đổi mới sáng tạo BambuUP, dưới sự bảo trợ của Cục Phát triển thị trường & DN Khoa học và Công nghệ (NATEC) - Bộ Khoa học và Công nghệ.

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
  • Việt Nam - Malaysia nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện
    Phát biểu tại họp báo, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Việt Nam-Malaysia tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực mới (như kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, năng lượng xanh...).
  • Chìa khóa giải quyết thách thức trong bảo vệ trẻ em trên không gian mạng
    Trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Đây không chỉ là bài toán của riêng Việt Nam mà còn là thách thức toàn cầu đòi hỏi sự chung tay hợp tác từ nhiều phía.
  • Việt Nam đang đối mặt 3 thách thức an toàn thông tin
    Các cuộc tấn công mạng hiện nay ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, đặc biệt khi có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, việc kết hợp công nghệ này với trí tuệ của con người đã giúp phát hiện và phòng, chống tấn công mạng hiệu quả hơn.
  • Chuyển đổi số thành công không thể thiếu “niềm tin số”
    Muốn triển khai hiệu quả chiến lược số hóa quốc gia cần triển khai theo hướng tiếp cận từ trên xuống dưới và phải phù hợp với thực tế, đảm bảo có tầm nhìn rộng trong tương lai.
  • Việt Nam - Hàn Quốc đồng hành trong kỷ nguyên AI
    Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm hy vọng, Việt Nam có thể học tập nhiều hơn từ Hàn Quốc về các bài học kinh nghiệm, cách làm hay để phát huy tối đa vai trò công nghệ số nói chung và trợ lý ảo nói riêng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo lập xã hội số nhân văn và thu hẹp khoảng cách số.
Đừng bỏ lỡ
  • Bốn giải pháp trọng tâm để giải bài toán an toàn dữ liệu quốc gia
    Theo Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương, năm 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong lĩnh vực an toàn thông tin. Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức cần vượt qua để đảm bảo an toàn dữ liệu quốc gia.
  • Việt Nam tăng cường hợp tác phát triển công nghệ số với Burundi và NIPA
    Trong khuôn khổ sự kiện Tuần lễ Số quốc tế 2024, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ Truyền thông, Công nghệ Thông tin và Đa phương tiện Burundi Léocadie Ndacayisaba và ông Hur Sung Wook, Chủ tịch Cục Xúc tiến Công nghiệp CNTT quốc gia Hàn Quốc (NIPA).
  • Chính thức ra mắt Nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin
    Nền tảng hướng tới nâng cao chất lượng và điều phối hiệu quả các hoạt động diễn tập trên toàn quốc thông qua nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin.
  • Robot Delta hữu dụng trong nhiều ngành
    Nhờ vào thiết kế độc đáo và khả năng hoạt động với tốc độ và độ chính xác cao, robot Delta là một giải pháp tối ưu trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại.
  • Cà Mau ứng dụng các phần mềm chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp
    Ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã không ngừng triển khai các giải pháp chuyển đổi số thông qua việc sử dụng các phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ quản lý, điều hành. Trong tương lai không xa, các phần mềm này sẽ hoàn thiện và bắt kịp xu hướng công nghệ để hỗ trợ người nông dân nhiều hơn trong việc tăng gia sản xuất.
  • Bảo vệ các hệ thống mạng trọng yếu là cấp thiết
    Song song với tiến trình chuyển đổi số, các chiến dịch tấn công mạng, gián điệp và khủng bố mạng nhằm vào hệ thống công nghệ thông tin (IT) và công nghệ vận hành (OT) trọng yếu ngày càng gia tăng, việc đảm bảo an ninh mạng trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia.
  • ‏OPPO Find X8 Series sẽ chính thức lên kệ ngày 7/12‏
    Ngày 21/11, OPPO chính thức ra mắt Find X8 Series‏‏ tại Việt Nam và sẽ lên kệ ngày 7/12 tới. Đây là lần đầu tiên người dùng Việt Nam được trải nghiệm dòng flagship cao cấp nhất của OPPO cùng lúc với toàn cầu. ‏
  • Chuyển đổi số từ thực tiễn Báo Hải Dương
    Báo Hải Dương có nhiều thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi số. Đó là Ban Biên tập có quyết tâm cao. Đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên của báo nhanh nhạy với cái mới, ham học hỏi...
  • Đưa siêu ứng dụng "Công dân Thủ đô số - iHanoi" vào cuộc sống
    “Công dân Thủ đô số” - iHaNoi là kênh tương tác trực tuyến trên môi trường số giữa người dân, doanh nghiệp với các cấp chính quyền thành phố Hà Nội. Qua ứng dụng này, người dân và doanh nghiệp có thể phản ánh các vấn đề đời sống, từ đó giúp chính quyền tiếp nhận và giải quyết kịp thời.
  • Sự gia tăng của ứng dụng AI tạo sinh: Những rủi ro tiềm ẩn cho xã hội và con người
    AI tạo sinh là một trong những thành tựu công nghệ mới nhất của con người trong thập niên 20 của thế kỷ XXI. Cho đến nay, sự ứng dụng của AI tạo sinh đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng trong các nghiên cứu xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. AI tạo sinh đã thách thức nhiều khái niệm và định kiến của chúng ta về bản thân mình, đặc biệt là về cách chúng ta hiểu về tư duy và bản chất của tư duy con người.
Kết quả ĐMST chưa xứng tầm với vai trò của các viện, trường đại học
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO