Kinh tế số

Lãi suất của FED đối phó bong bóng Dot-com trong quá khứ và hiện nay

Quý Minh 04/04/2024 08:26

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Mọi quốc gia trên thế giới đều liên quan chặt chẽ với nhau trên mọi khía cạnh kinh tế, kỹ thuật cho đến chính trị - xã hội... Những ai thường xuyên theo dõi thị trường công nghệ và tài chính ắt hẳn không quên việc bùng nổ rồi sụp đổ của các công ty Internet, còn được gọi là bong bóng dot-com trong năm đầu tiên của thế kỷ 21.

Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED - viết rút gọn của Federal Reserve System - Hệ thống Dự trữ Liên bang, hay có thể gọi là Ngân hàng Trung ương của Hoa Kỳ), đã thực hiện các chính sách gì để ổn định thị trường, đối phó khắc phục hậu quả của bong bóng dot-com và những sự cố khác, những bong bóng khác sau đó và hiện nay?

Bài viết này tổng hợp lại các số liệu trong hơn 30 năm về chính sách lãi suất của FED. Để tiện theo dõi, các số liệu được xem xét phân tích theo ba giai đoạn: trước, trong và sau khi xảy ra bong bóng dot-com cho đến thời điểm hiện tại.

fed.jpg

Giai đoạn trước khi xảy ra bong bóng dot-com

Xin lưu ý rằng trước năm 1990, FED không nhắm mục tiêu rõ ràng đến một tỷ lệ quỹ liên bang nhất định. Nếu bạn quan tâm đến chính sách lãi suất trước đó, hãy xem tài liệu của FED được tạo ra thông qua yêu cầu của Đạo luật Tự do Thông tin.

Sau một thời kỳ suy thoái ngắn vào đầu thập kỷ 1990, nền kinh tế Hoa Kỳ có GDP là +3,5% vào năm 1992, +2,8% vào năm 1993 và tăng vọt +4% vào năm 1993. Vào thời điểm đó, những người thuộc thế hệ bùng nổ dân số đang ở đỉnh cao sự nghiệp của họ, nhập cư mạnh mẽ và công nghệ mới đang chuyển đổi nền kinh tế.

Với tỷ lệ năng suất cao giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp, FED đã bước vào một nền kinh tế mạnh mẽ. “Quyết định được đưa ra nhằm hướng tới một quan điểm ít phù hợp hơn trong chính sách tiền tệ nhằm duy trì và tăng cường mở rộng kinh tế”, tuyên bố ngắn gọn của FED đi kèm với sự khởi đầu vào tháng 2/1994. Đây là lần đầu tiên FED công bố tăng lãi suất theo thời gian thực. Tuy nhiên, thị trường đã bất ngờ xảy ra và vụ sụp đổ trái phiếu năm 1994 bắt đầu.

Chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ giai đoạn 1994 - 1995 thường được nhớ đến như một trường hợp hiếm hoi về việc FED thực hiện cái gọi là “hạ cánh mềm” cho nền kinh tế. Từ tháng 2/1994 đến tháng 2/1995, Alan Greenspan đã lãnh đạo Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) tăng gần gấp đôi lãi suất quỹ liên bang chỉ sau 7 lần tăng.

Tuyên bố của FED cho biết: “Việc thắt chặt nhẹ các điều kiện tiền tệ được coi là một bước đi thận trọng mang lại sự đảm bảo lớn hơn cho việc kéo dài quá trình mở rộng kinh tế hiện tại bằng cách duy trì môi trường lạm phát thấp trong suốt thời gian còn lại của năm nay và năm tới”.

Vào tháng 3/1997, lạm phát đứng ở mức 1,94% và nhích lên một chút. Nền kinh tế huy hoàng của những năm 1990 đã trải qua khoảng 6 năm mở rộng kéo dài 10 năm và FED muốn đảm bảo rằng giá cả vẫn ở mức mục tiêu 2%.

Một loạt các sự kiện liên quan đến nhau đã thúc đẩy ba đợt cắt giảm lãi suất vào mùa thu năm 1998. Cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á bắt đầu ở Thái Lan vào năm 1997 và sau đó lan sang phần còn lại của châu Á và châu Mỹ Latinh. Điều này đã gây ra cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Nga vào cuối năm 1998, và những vấn đề này đã đẩy một quỹ phòng hộ khổng lồ của Hoa Kỳ có tên Long-Term Capital Management (LTCM) đến bờ vực phá sản.

Trong một tuyên bố ngắn gọn đi kèm với đợt cắt giảm lãi suất vào tháng 9/1998, FED chỉ tuyên bố đơn giản rằng “hành động được thực hiện nhằm giảm bớt những tác động lên tăng trưởng kinh tế tiềm năng ở Hoa Kỳ do sự yếu kém ngày càng tăng của các nền kinh tế nước ngoài và các điều kiện tài chính trong nước kém thuận lợi hơn”.

Giai đoạn xảy ra bong bóng dot-com

Bong bóng dot-com được hình thành trong các năm cuối 1990 và 2000. Đỉnh điểm là vụ phá sản dot-com năm 2001.

dot-com.jpeg

Từ năm 1995 đến đỉnh điểm vào tháng 3/2000, chỉ số NASDAQ đã tăng 400% khi làn sóng đầu cơ điên cuồng đã đẩy giá trị của các cổ phiếu Internet và các công ty công nghệ lên cao. Sự hưng phấn điên cuồng phi lý đã chứng kiến một lượng tiền khổng lồ chảy vào các khoản đầu tư dot-com kém khả thi hơn bao giờ hết, dẫn đến sự sụp đổ thị trường chứng khoán không thể tránh khỏi. Vụ khủng bố 11/9 làm trầm trọng thêm các vấn đề trong nền kinh tế.

Chỉ số NASDAQ COMPOSITE đạt đỉnh vào tháng 2/2000 nhưng mãi đến tháng 9/2002 mới chạm đáy. Trong thời gian đó, cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán đã lan sang nền kinh tế thực, khiến GDP sụt giảm nhẹ và mức thất nghiệp cao hơn, dẫn đến một cuộc suy thoái kéo dài 8 tháng.

FED theo dõi bong bóng phồng lên và can thiệp vào việc tăng lãi suất bắt đầu từ tháng 6/1999. Với tỷ lệ thất nghiệp dao động quanh mức 4% và lạm phát đang nhích dần về mục tiêu 2% của FED, cựu Chủ tịch FED Alan Greenspan muốn dập tắt mọi khả năng lạm phát kỳ vọng có thể xảy ra, cố thủ để giới hạn chu kỳ thắt chặt này.

Các nhà đầu tư đã vui mừng trước tin tức này và cổ phiếu đã có một “cuộc phục hồi nhẹ nhõm” ngay lập tức. Đã có những tin đồn từ một số nhà phân tích rằng lãi suất có thể còn tăng cao hơn nữa, nhưng FED đã trì hoãn khi lạm phát ổn định.

FED đã hạ lãi suất tổng cộng 5,25 điểm phần trăm với nhịp độ cắt giảm lãi suất đều đặn trong suốt năm 2001. Cuộc suy thoái dot-com kéo dài từ tháng 3 đến tháng 11/2001. Nhưng FED lo lắng sự phục hồi kinh tế yếu ớt, với các thước đo về niềm tin của người tiêu dùng chạm mức thấp nhất trong 9 năm.

Việc cắt giảm lãi suất của FED 2002 - 2003 giúp cho nền kinh tế Hoa Kỳ dần phục hồi và lạm phát thấp. Năm 2003, lạm phát thấp đến mức đáng lo ngại, ở mức 1,78% vào tháng 1 và giảm xuống 1,47% chín tháng sau đó. Lo lắng về giảm phát, FED đã cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản.

FED cho biết trong một tuyên bố: “Với kỳ vọng lạm phát giảm bớt, Ủy ban đánh giá rằng chính sách tiền tệ mở rộng hơn một chút sẽ hỗ trợ thêm cho nền kinh tế mà họ kỳ vọng sẽ cải thiện theo thời gian”. Tuy nhiên, điều này đưa lãi suất quỹ liên bang xuống mức thấp nhất trong 45 năm.

Giai đoạn sau bong bóng dot-com

Sau cuộc suy thoái dot-com vào đầu những năm 2000, nền kinh tế Hoa Kỳ phục hồi nhanh chóng. FED đã cắt giảm lãi suất vào giữa năm 2003. Điều đó đã giúp GDP tăng từ +1,7% năm 2001 lên +3,9% năm 2004 - và đến năm 2005, mọi người đã nói về bong bóng trên thị trường nhà ở Hoa Kỳ. FED đã cố gắng hạ nhiệt nền kinh tế và bong bóng bất động sản đang gia tăng bằng cách tăng lãi suất 17 lần trong 2 năm, nâng lãi suất mục tiêu của quỹ liên bang lên 4 điểm phần trăm trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, lạm phát vẫn ở mức khá thấp với lạm phát chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi (PCE) đạt mức 2,67% vào tháng 8/2006. Vào cuối chu kỳ tăng lãi suất này, tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,6% và lạm phát PCE bắt đầu giảm xuống mức mục tiêu 2% của FED.

FED đã hoàn thành chiến dịch tăng lãi suất giai đoạn 2005 - 2006 vào tháng 6/2006. Đến đầu năm 2007, bong bóng nhà đất vỡ tung và tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng. Với nền kinh tế suy yếu, lãi suất bắt đầu giảm vào tháng 9/2007, cuối cùng giảm lãi suất 2,75 điểm phần trăm trong vòng chưa đầy một năm.

Trong một tuyên bố tháng 4/2008, FED cho biết: “Việc nới lỏng đáng kể chính sách tiền tệ cho đến nay, kết hợp với các biện pháp đang diễn ra nhằm thúc đẩy thanh khoản thị trường, sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng vừa phải theo thời gian và giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động kinh tế”.

Sau đợt cắt giảm lãi suất vào tháng 4/2008, Chủ tịch FED lúc đó là Ben Bernanke đã tạm dừng khảo sát tác động của việc giảm lãi suất đối với nền kinh tế. Một số nhà phân tích tin rằng lạm phát cao hơn đang diễn ra - và ít người nhận ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sắp tới sẽ tồi tệ đến mức nào.

Vào cuối năm 2008, FED đã cắt giảm lãi suất xuống 0 trong một nỗ lực chưa từng có nhằm giúp nền kinh tế Hoa Kỳ đối phó với hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Bảy năm sau, ngân hàng Trung ương bắt đầu thận trọng tăng lãi suất khi nền kinh tế dần phục hồi. Lãi suất FED trong giai đoạn 2015 - 2018 dần trở lại trạng thái bình thường.

Lần tăng lãi suất đầu tiên là vào tháng 12/2015, dưới thời cựu Chủ tịch FED Janet Yellen, người hiện giữ chức Bộ trưởng Tài chính dưới thời chính quyền Tổng thống Biden. Đợt tăng lãi suất tiếp theo diễn ra vào tháng 12/2016.

Ủy ban đánh giá rằng đã có sự cải thiện đáng kể về điều kiện thị trường lao động trong năm nay và có lý do hợp lý để tin rằng lạm phát sẽ tăng, trong trung hạn, đạt mục tiêu 2%”, FED viết trong một tuyên bố đi kèm với báo cáo đầu năm 2015. Lạm phát PCE lõi là 1,1% vào tháng 12/2015, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của FED. Nó không đạt mức 2% cho đến tháng 3/2018. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia giảm thêm 1,5 điểm phần trăm trong 4 năm tiếp theo.

Những dữ liệu kinh tế tồi tệ từ Trung Quốc vào đầu năm 2016 đã khiến thị trường chứng khoán hoảng loạn và buộc FED phải tạm dừng tăng lãi suất trong cả năm. FOMC đã dành thời gian để quay trở lại lập trường chính sách tiền tệ bình thường hơn cho đến khi một cơn bão kinh tế khác thay đổi triển vọng vào năm 2019.

Rich Yamarone, Giám đốc nghiên cứu kinh tế tại Argus Research vào thời điểm đó, nói với CNNMoney: “Các nhà hoạch định chính sách biết rất rõ rằng khi lãi suất thực âm trong một thời gian dài, áp lực lạm phát sẽ tăng lên nhanh chóng và đáng kể”.

Năm 2019, FED tiến hành điều chỉnh giữa chu kỳ bằng việc cắt giảm lãi suất. FED đã cắt giảm lãi suất 1/4 điểm phần trăm 3 lần trong năm 2019 trong cái gọi là “điều chỉnh giữa chu kỳ”. Nói một cách dễ hiểu, FED đã nới lỏng lãi suất giữa chu kỳ kinh doanh từ mở rộng đến suy thoái kinh tế điển hình. Năm 2019, Hoa Kỳ và Trung Quốc xảy ra xung đột về thương mại - cái gọi là “chiến tranh thương mại” - và FED lo ngại xung đột sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế và đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên cao.

Ba lần cắt giảm lãi suất khiêm tốn trong nửa cuối năm 2019 đã có tác động tích cực đến nền kinh tế. Lạm phát đang ở dưới mức mục tiêu 2% của ngân hàng Trung ương vào thời điểm đó, được đo bằng chỉ số giá PCE, thước đo ưa thích của FED về lạm phát ở Mỹ. PCE lõi đã tăng 1,7% trong tháng 6/2019 so với năm trước. Đến tháng 2/2020, nó chỉ tăng 1,9%.

“Thông tin nhận được kể từ khi FOMC họp vào tháng 12/2019 cho thấy thị trường lao động vẫn mạnh mẽ và hoạt động kinh tế đang tăng trưởng ở mức vừa phải”. Tuyên bố chính sách của FOMC được đưa ra ngày 29/1/2020, chỉ vài ngày trước khi nền kinh tế Mỹ rơi vào cuộc suy thoái do COVID-19. Chỉ trong vài tuần, đại dịch COVID-19 đã lan rộng khắp toàn cầu. Các quan chức y tế công cộng trên toàn thế giới khuyến nghị các chính trị gia áp dụng lệnh phong tỏa để ngăn chặn sự lây lan của virus và giảm bớt số ca bệnh tại bệnh viện. Chỉ riêng tháng 4/2020, khoảng 20,5 triệu việc làm sẽ bị mất, với tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 14,7%.

Để đối phó với COVID-19, FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất trong năm 2020. Hai đợt cắt giảm lãi suất lớn đã được thông qua tại các cuộc họp khẩn cấp đột xuất vào tháng 3/2020, đưa lãi suất mục tiêu của quỹ liên bang trở về mức từ 0 - 0,25%. Mặc dù nền kinh tế tăng trưởng trở lại về mặt kỹ thuật vào tháng 5/2020, sau đợt suy thoái ngắn được ghi nhận, nhưng hậu quả từ các biện pháp kinh tế nhằm đối phó với đợt bùng phát COVID-19 vẫn còn ảnh hưởng cho đến ngày nay.

FED đã giữ lãi suất quỹ liên bang ở mức khoảng 0 gần đây nhất là vào quý đầu tiên của năm 2022. FED cũng vẫn mua hàng tỷ đô la trái phiếu mỗi tháng để kích thích nền kinh tế. Tất cả đều bất chấp mức lạm phát cao nhất trong 40 năm của Hoa Kỳ.

Để kiểm soát lạm phát, từ quý 2/2022 và kéo sang hết năm 2023, FED đã tiến hành nhiều đợt tăng lãi suất. Một khi FED quyết định đã đến lúc phải làm gì đó để giải quyết lạm phát, họ sẽ hành động một cách mạnh mẽ.

Chủ tịch FED Jerome Powell cho biết trong bài phát biểu hồi tháng 8/2022 tại Jackson Hole: “Không có sự ổn định về giá cả, nền kinh tế sẽ không có lợi cho bất kỳ ai. Đặc biệt, nếu không ổn định giá cả, chúng ta sẽ không đạt được thời kỳ thị trường lao động mạnh mẽ kéo dài mang lại lợi ích cho tất cả mọi người”.

fed-interest-rate.jpg

Trong 16 tháng từ quý II năm 2022 cho đến cuối năm 2023, ngân hàng Trung ương đã tăng lãi suất quỹ liên bang lên hơn 5 điểm phần trăm. Điều này đã giúp giảm tỷ lệ lạm phát nóng đỏ đang ăn mòn sức mua hàng ngày của người dân Hoa Kỳ, giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, xã hội ổn định. Mark Twain đã viết rằng lịch sử không lặp lại nhưng nó thường có vần điệu.

Về công nghệ, có thể thấy sự bùng nổ rồi sụp đổ của thị trường tiền ảo trong vài năm vừa gần đây có nhiều điểm khá giống sự bùng nổ rồi sụp đổ của các công ty Internet đã gây nên bong bóng dot-com năm 2001. Cả hai sự khởi đầu đều xuất phát từ việc lợi dụng tình trạng thiếu hiểu biết về công nghệ và tài chính của các khách hàng muốn mau chóng kiếm tiền, dần dẫn đến tình trạng bùng nổ rồi tan vỡ. Tuy nhiên, do đã có kinh nghiệm từ việc xử lý tình huống trước đây nên tác hại của bong bóng tiền ảo đã bị ngăn chặn và dập tắt trước khi nó kịp gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Chính sách lãi suất của FED về việc điều chỉnh phạm vi lãi suất mục tiêu là để đáp ứng với những gì đang xảy ra trong nền kinh tế. Việc điều chỉnh lãi suất giúp FED đạt được các điều kiện đáp ứng được nhiệm vụ kép của họ: Giữ giá ổn định và tối đa hóa việc làm.

Đây là cách thức hoạt động: FED tăng lãi suất khi nền kinh tế bắt đầu quá nóng, lạm phát quá nhiều; và cắt giảm lãi suất khi nền kinh tế có vẻ yếu đi, tỷ lệ thất nghiệp cao. Rất nhiều yếu tố dữ liệu khác ảnh hưởng đến các quyết định chính sách tiền tệ của FED, bao gồm tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chi tiêu tiêu dùng và sản xuất công nghiệp, chưa kể các sự kiện lớn như khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu hay tấn công khủng bố...

Tuy nhiên, hiện nay những hậu quả để lại của đại dịch COVID, chiến tranh Ukraine vẫn còn kéo dài... vẫn là những vấn đề nan giải. Thận trọng trên từng con số, mỗi quyết định tăng, giảm hay giữ nguyên lãi suất của FED không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế Hoa Kỳ mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu.

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, thông tin là chìa khóa thành công. Mong rằng bài viết này hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách.

Nguồn tham khảo: www.forbes.com; www.macrotrends.net; home.treasury.gov; www.investopedia.com.

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Lãi suất của FED đối phó bong bóng Dot-com trong quá khứ và hiện nay
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO