Trải nghiệm kỹ thuật số trong đại dịch trở thành thói quen lâu dài
Khi cuộc sống hàng ngày của chúng ta chuyển từ thế giới thực sang thế giới ảo trong đại dịch, người tiêu dùng đổ xô sử dụng các ứng dụng và dịch vụ mới cho phép họ làm việc, giải trí và hoàn thành các nhiệm vụ trực tuyến so với trực tiếp. Nhưng sự ưa thích ngày càng tăng đối với các tùy chọn dịch vụ trực tuyến, không tiếp xúc này, có khiến chúng ta ưu tiên sự tiện lợi hơn an ninh mạng và quyền riêng tư dữ liệu - và những thói quen này sẽ thay đổi như thế nào khi xã hội quay trở lại các chuẩn mực trước đại dịch?
Để tìm hiểu, IBM đã thực hiện một nghiên cứu toàn cầu với Morning Consult, khảo sát thói quen bảo mật trực tuyến của người tiêu dùng toàn cầu. Báo cáo mới này được thực hiện với sự tham gia của 22 ngàn cá nhân tại 22 thị trường khác nhau trên thế giới (1). Kết quả cho thấy người tiêu dùng không chỉ gia tăng sự phụ thuộc vào các kênh kỹ thuật số trong thời kỳ đại dịch, mà sự “phụ thuộc vào kỹ thuật số” này dự kiến sẽ kéo dài ngay cả sau khi xã hội quay trở lại các chuẩn mực trước đại dịch. Người tiêu dùng cho biết họ sẽ tiếp tục dựa vào các dịch vụ kỹ thuật số với tỷ lệ cao hơn so với trước đại dịch và nhiều người nói rằng họ sẽ không xóa bất kỳ tài khoản mới nào mà họ đã tạo trong thời gian đó.
Với câu hỏi: “Bạn đã/làm/sẽ sử dụng định dạng nào phổ biến nhất để tương tác với các loại hình doanh nghiệp/tổ chức sau đây?”[Hiển thị: Phần trăm người tiêu dùng chủ yếu sử dụng định dạng kỹ thuật số (cuộc gọi điện thoại, trang web/trang web dành cho thiết bị di động, ứng dụng di động) so với thực tế].
Phân tích số liệu từ cuộc khảo sát cho thấy, ngày càng nhiều người tiêu dùng thích nghi với các tính năng và giao dịch trực tuyến. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các sở thích của cá nhân về sự tiện lợi thường vượt trội hơn những mối quan tâm về bảo mật và quyền riêng tư - dẫn đến các lựa chọn kém về mật khẩu và các thái độ ứng phó của người tiêu dùng với an ninh mạng.
Thế hệ trẻ có nhiều khả năng tiếp tục tương tác kỹ thuật số nhất. Những người trả lời toàn cầu dưới 50 tuổi cũng nghiêng về việc họ sẽ tiếp tục tương tác thông qua các định dạng kỹ thuật số trong cuộc sống sau đại dịch COVID-19.
[Hiển thị: Phần trăm người tiêu dùng chủ yếu sử dụng các định dạng kỹ thuật số (cuộc gọi điện thoại, trang web/trang web dành cho thiết bị di động, ứng dụng di động) so với thực tế]
Việc hiểu biết hạn chế về các nguy cơ an ninh mạng của người tiêu dùng, cùng với tiến trình chuyển đối số nhanh và mạnh của các doanh nghiệp trong thời kỳ đại dịch, đã tạo ra những kẽ hở không tưởng cho các nhóm tấn công mạng vào mọi ngành nghề. Theo một báo cáo khác đã từng công bố trước đây của IBM, các hành vi bảo mật non kém của người tiêu dùng cũng làm ảnh hưởng không nhỏ trong môi trường công sở, với việc xâm phạm thông tin đăng nhập người là một trong những thao tác tấn công an ninh mạng phổ biển nhất được báo cáo trong năm 2020.(2)
Ghi nhận nổi bật trong báo cáo khảo sát cho thấy:
Sự bùng nổ kỹ thuật số sẽ tiếp tục kéo dài ngay cả khi đại dịch đã được khống chế:
Những người trả lời trên toàn cầu đã tạo khoảng 15 tài khoản trực tuyến mới trong thời gian đại dịch ở tất cả các danh mục và trung bình, đã tạo 2 tài khoản mới cho giải trí, mạng xã hội, mua sắm/bán lẻ, hội nghị truyền hình và dịch vụ ăn uống. Các thế hệ trẻ đã tạo thêm nhiều tài khoản mới. Thế hệ Millennials trên toàn cầu đã tạo hơn 18 tài khoản trực tuyến mới trong thời kỳ đại dịch ở tất cả các danh mục và tạo nhiều tài khoản trên từng danh mục hơn bất kỳ thế hệ nào khác. Gần một nửa (44%) số người được hỏi trên toàn cầu không có kế hoạch xóa hoặc hủy kích hoạt bất kỳ tài khoản mới nào mà họ đã tạo trong đại dịch sau khi xã hội trở lại chuẩn mực trước đại dịch.
Riêng người tiêu dùng khu vực châu Á Thái Bình Dương tham gia khảo sát này cho biết đã tạo trung bình 17 tài khoản trực tuyến mới trong thời gian đại dịch.37% báo cáo rằng họ không có kế hoạch xóa hoặc hủy kích hoạt bất kỳ tài khoản mới nào mà họ đã tạo sau khi xã hội trở lại chuẩn mực trước đại dịch. Ngược lại, những người tiêu dùng này sẽ tiếp tục gia tăng sử dụng các phương tiện và giao diện trực tuyến trong nhiều năm tới, đồng nghĩa sẽ mở rộng đáng kể các cơ hội tấn công cho tội phạm mạng.
Những lo ngại về bảo mật
Quá tải về số lượng các tài khoản kỹ thuật số dẫn đến hành vi sử dụng mật khẩu lỏng lẻo trong số những người được khảo sát. Tài khoản mới nhiều hơn gây ra khó khăn về tạo và ghi nhớ và thay đổi mật khẩu, với việc người tiêu dùng báo cáo mức độ tái sử dụng mật khẩu trên tài khoản của họ. Điều này có nghĩa là nhiều tài khoản mới được tạo trong đại dịch có thể dựa vào thông tin đăng nhập được sử dụng lại, có thể đã bị xâm phạm trong các lần vi phạm dữ liệu trước đó.
Phần lớn (82%) người được hỏi trên toàn cầu đang sử dụng lại cùng một thông tin đăng nhập mà họ đã sử dụng cho các tài khoản khác ít nhất một lần. 45% số người trả lời luôn luôn hoặc chủ yếu sử dụng lại cùng một thông tin đăng nhập. Những người trả lời trẻ tuổi hơn có xác suất cao nói rằng họ luôn luôn hoặc chủ yếu sử dụng lại chính thông tin đăng nhập mà họ đã sử dụng cho các tài khoản khác.
Các tài khoản trực tuyến mới được tạo trong thời gian xảy ra đại dịch với câu hỏi: “Bạn đã tạo bao nhiêu tài khoản trực tuyến mới cho các danh mục sau kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19?” [Số liệu hiển thị mức trung bình]
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, 86% người tiêu dùng thừa nhận sử dụng lại thông tin đăng nhập trực tuyến của họ trên các tài khoản đã sử dụng trước đây. Điều này có nghĩa là nhiều tài khoản mới được tạo trong đại dịch có thể dựa vào các kết hợp email và mật khẩu được sử dụng lại, những tài khoản này có thể đã bị lộ do vi phạm dữ liệu trong thập kỷ qua.
Đồng thời, người tiêu dùng quan tâm tới sự thuận tiện hơn là bảo mật và quyền riêng tư. Sự phụ thuộc ngày càng nhiều của người tiêu dùng vào các kênh kỹ thuật số trong thời kỳ đại dịch có thể gây ra thái độ lỏng lẻo hơn đối với bảo mật. Sự tiện lợi của các dịch vụ kỹ thuật số thường vượt trội hơn các mối quan tâm về bảo mật và quyền riêng tư. Nhiều người tiêu dùng (đặc biệt là thế hệ trẻ) nói rằng họ muốn sử dụng các dịch vụ kỹ thuật số, ngay cả khi có những lo ngại về bảo mật hoặc quyền riêng tư với ứng dụng. Thậm chí, người tiêu dùng hiếm khi từ chối sử dụng nền tảng kỹ thuật số mới do lo ngại về bảo mật hoặc quyền riêng tư. 24% người được hỏi trên toàn cầu báo cáo rằng những lo ngại về bảo mật hoặc quyền riêng tư không bao giờ là rào cản đối với việc tải xuống ứng dụng hoặc tạo tài khoản trong đại dịch.
54% người được hỏi tại châu Á - Thái Bình Dương ngày càng thích đặt hàng và thanh toán trực tuyến hơn là đến cửa hàng để mua sắm trực tiếp. Con số này lên tới 60% đối với thệ hệ Millennials. Với những người dùng này, nhiều khả năng họ thường bỏ qua các lo ngại về bảo mật để thuận tiện cho việc sử dụng các ứng dụng trực tuyến, khiến cho gánh nặng bảo mật sẽ đặt lên vai các công ty cung cấp dịch vụ trực tuyến để đề phòng gian lận và mất an toàn thông tin.
35% người được hỏi trên toàn cầu đã chấp nhận các điều khoản mà họ không thoải mái để họ có thể sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, phần lớn (56%) người được hỏi trên toàn cầu cho biết họ sẽ xóa quyền đối với một ứng dụng theo dõi hành vi nếu ứng dụng đó có cấp quyền lựa chọn này.
“Cũng giống như nhiều quốc gia và khu vực khác trên thế giới, châu Á - Thái Bình Dương cũng chịu ảnh hưởng của đại dịch lên mọi khía cạnh của cuộc sống, đồng nghĩa với việc nhu cầu sử dụng các giao diện số cho các hành vi tiêu dùng ngày càng gia tăng. Từ các cửa hàng tiện lợi, ngân hàng, các giao tế xã hội thông thường cho tới các dịch vụ đặc biệt như y tế, hành chính công, chúng ta ngày càng chứng kiến nhu cầu chuyển dịch từ trực tiếp sang trực tuyến của người tiêu dùng. Và kết quả là ngày càng nhiều các doanh nghiệp tổ chức phụ thuộc vào các kênh bán hàng hoá và dịch vụ trực tuyến để nhanh chóng và dễ dàng tiếp cận người tiêu dùng, đồng nghĩa với việc tạo thêm nhiều sơ hở cho các rủi ro tấn công an ninh mạng.
Giờ đây, các doanh nghiệp bắt đầu chủ động tìm kiếm các công cụ tân tiến, cũng như ứng dụng AI và phân tích dữ liệu, để hiện đại hóa các nền tảng nhận diện và quản lý truy cập, nhằm mang lại các trải nghiệm trơn tru và bảo mật cho khách hàng. Để tối ưu hóa mức độ bảo mật cao nhất, doanh nghiệp và tổ chức cần nhanh chóng thích nghi và ứng dụng cách tiếp cận. Tuyệt đối không tin tưởng (Zero-trust) trên mọi giao diện tiếp xúc với khách hàng, trên mọi thiết bị và trong mọi giao dịch”, ông Matthew Glitzer, Phó Chủ tịch, Nhóm Bảo mật, IBM châu Á - Thái Bình Dương khẳng định.
Người dùng yêu cầu khả năng truy cập dễ dàng
Báo cáo cũng đưa ra một vài yêu cầu từ phía người tiêu dùng nhằm đảm bảo khả năng dễ dàng truy cập và sử dụng:
Nguyên tắc 5 phút: Theo kết quả báo cáo, 57% người trưởng thành tham gia khảo sát kỳ vọng sẽ chỉ mất khoảng 5 phút cho mỗi lần khởi tạo tài khoản trực tuyến mới.
Tối đa 3 thao tác: Người tiêu dùng trong khu vực cũng mong muốn chỉ cần 3 đến 4 thao tác để có thể tái tạo tài khoản bao gồm cả bước thay đổi hoặc đặt mới mật khẩu. Tuy nhiên trên thực tế, mỗi tác vụ thay đổi tài khoản của người sử dụng đều khiến doanh nghiệp phải chịu mức chi phí vì các bước này ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới các nguy cơ bảo mật, đặc biệt nếu người sử dụng đồng bộ hóa tài khoản trên nhiều thiết bị.
Cách ghi nhớ phổ thông:44% người được hỏi trên toàn cầu lưu trữ thông tin tài khoản trực tuyến trong bộ nhớ của họ và 32% có thông tin tài khoản trực tuyến của họ được viết trên giấy. Tương tự, tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, 47% số người được hỏi cho biết họ cho phép thiết bị số của mình tự ghi nhớ các thông tin liên quan tới các tài khoản trực tuyến, trong khi đó 34% cho biết họ ghi các thông tin này ra giấy.
Nhận diện đa lớp: Bởi đa số người tiêu dùng sử dụng chung một mật khẩu cho nhiều tài khoản trực tuyến, nên việc bổ sung các bước xác định chủ tài khoản là vô cùng cần thiết nhằm giảm thiểu rủi ro bị đánh cắp tài khoản. Hơn 2/3 người được hỏi tại khu vực đang sử dụng bảo mật hai lớp hoặc đa lớp để đăng nhập các tài khoản trực tuyến.
Do sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào các kênh kỹ thuật số, sự gia tăng của mật khẩu được sử dụng lại và sở thích của người tiêu dùng đối với trải nghiệm kỹ thuật số tiện lợi cao, các doanh nghiệp phải đảm bảo rằng việc truy cập vào các dịch vụ kỹ thuật số của họ vừa đơn giản vừa an toàn.
Nghiên cứu này cũng cho thấy, trải nghiệm người dùng tồi dẫn đến công việc kinh doanh thất bại. Khoảng 40% người được hỏi trên toàn cầu đã từ bỏ mua hàng, ứng dụng hoặc giao dịch trực tuyến dựa trên trải nghiệm tiêu cực khi đăng nhập (42%), đăng ký (41%) hoặc hoàn tất thanh toán (41%). Trung bình, những người trả lời toàn cầu ở tất cả các nhóm tuổi sẽ thử khoảng 3 - 4 lần đăng nhập trước khi họ quyết định đặt lại thông tin đăng nhập của mình. Những người trả lời ở lứa tuổi trẻ hơn có xác suất cao hơn nói rằng họ đã từ bỏ mua hàng trực tuyến, ứng dụng hoặc giao dịch dựa trên trải nghiệm tiêu cực khi đăng nhập, đăng ký và hoàn tất thanh toán. Mặc dù mật khẩu là phương pháp quen thuộc để đăng nhập, những người trả lời dưới 35 tuổi có nhiều khả năng hơn các thế hệ cũ thích đăng nhập một lần (SSO - Single sign-on) hoặc sinh trắc học.
Do đó, việc đầu tư vào chiến lược Quản lý danh tính người tiêu dùng và quản lý truy cập (CIAM) hiện đại hóa có thể giúp các công ty tăng cường tương tác kỹ thuật số - cung cấp trải nghiệm người dùng dễ dàng trên các nền tảng kỹ thuật số và sử dụng phân tích hành vi để giảm nguy cơ sử dụng tài khoản gian lận.
Cái nhìn sâu hơn vào ngành y tế trực tuyến
Các kênh trực tuyến vẫn tiếp tục lên ngôi trong ngành y tế, câu chuyện ở thời điểm hiện tại là các ứng dụng liên quan tới truy vết, tới vắc-xin, và xét nghiệm đang ngày được người tiêu dùng quan tâm và hưởng ứng. Các cơ sở quản lý và cung cấp dịch vụ y tế cũng hiểu điều này, bằng cách ngày càng nhanh chóng ứng dụng CNTT vào tiếp cận trực tuyến với người sử dụng dịch vụ, đặc biệt là những người sử dụng mới.(3)
Báo cáo cho biết, người có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế đang ngày càng tự tin vào các giao tiếp trực tuyến với các cơ sở y tế. Và họ sẽ tiếp tục sử dụng các dịch vụ y tế trực tuyến ngay cả khi đại dịch qua đi. Ở thời điểm này, 69% người được hỏi cho biết họ đang sử dụng một hoặc vài hình thức dịch vụ liên quan tới đại dịch thông qua các kênh online như website, app trên thiết bị di động, email và tin nhắn. 42% số người đã làm như vậy thông qua các trang web và ứng dụng web, trong khi 39% sử dụng các ứng dụng di động.
Khi các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đẩy mạnh hơn nữa lĩnh vực y tế từ xa, các giao thức bảo mật sẽ ngày càng trở nên quan trọng nhằm thích ứng với những thay đổi này, từ việc duy trì tính ổn định của các hệ thống CNTT trực tuyến, đến bảo vệ dữ liệu nhạy cảm của bệnh nhân. Điều này bao gồm phân loại dữ liệu và thực hiện các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt để người dùng chỉ có thể truy cập vào các hệ thống và dữ liệu cụ thể, hạn chế các tác động của việc tài khoản hoặc thiết bị số của bệnh nhân bị xâm phạm. Để chuẩn bị cho các trường hợp bị tấn công bằng mã độc và phần mềm tống tiền, dữ liệu của bệnh nhân cần được mã hóa, tốt nhất là mọi lúc, và phải có các bản sao lưu đáng tin cậy để hệ thống và dữ liệu có thể nhanh chóng được khôi phục với thời gian gián đoạn tối thiểu.
Nền tảng cần thiết cho nhận diện số
Khái niệm về thẻ y tế số (digital heath pass), hay còn gọi là hộ chiếu vắc-xin (vaccine passport), đã mang tới cơ hội ứng dụng kỹ thuật số thực tế cho người tiêu dùng, cung cấp phương pháp tiếp cận dựa trên công nghệ để xác minh các khía cạnh cụ thể về danh tính của mỗi cá nhân.
Việc nhận dạng cá nhân được số hóa trong và sau đại dịch có thể giúp thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi hơn cũng như hiện đại hóa các hệ thống nhận dạng kỹ thuật số, mang tới khả năng thay thế các dạng thẻ căn cước truyền thống như hộ chiếu và bằng lái xe, trao quyền cung cấp và giới hạn thông tin cần thiết cho người tiêu dùng trong mỗi giao dịch cụ thể. Hộ chiếu vắc-xin bên cạnh việc tạo ra tiềm năng ứng dụng các phương pháp nhận dạng kỹ thuật số cho tương lai, các biện pháp bảo mật và quyền riêng tư cũng đồng thời được ứng dụng song song và nhất quán, bao gồm cả việc ứng dụng blockchain để xác minh và cung cấp khả năng cập nhật những thông tin đăng nhập trong trường hợp thông tin cá nhân bị xâm phạm.
Doanh nghiệp cần sớm thích nghi và đặt quyền lợi bảo mật người sử dụng lên hàng đầu: Bộ phận Bảo mật của IBM đưa ra các gợi ý cho doanh nghiệp và tổ chức nhằm cân nhắc và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài liên quan tới an toàn an ninh mạng cho người sử dụng:
Phương pháp tiếp cận Tuyệt đối Không tin tưởng (Zero Trust): Do rủi ro ngày càng tăng, các doanh nghiệp nên xem xét phát triển phương pháp bảo mật “Tuyệt đối Không tin tưởng”, hoạt động theo giả định rằng danh tính đã được xác thực hoặc hệ thống mạng có thể đã bị xâm phạm và do đó liên tục xác nhận các điều kiện kết nối giữa người dùng, dữ liệu và các nguồn lực để xác định ủy quyền và nhu cầu sử dụng dữ liệu cá nhân. Cách tiếp cận này yêu cầu doanh nghiệp phải thống nhất dữ liệu và chiến lược bảo mật, với mục tiêu bao hàm bối cảnh bảo mật xung quanh tất cả người dùng, tất cả thiết bị truy cập và tất cả tương tác.
Hiện đại hóa công tác quản lý quyền truy cập và nhận diện người dùng (CIAM): Các doanh nghiệp tiếp tục ứng dụng các kênh kỹ thuật số để tiếp cận người tiêu dùng cần phải đưa ra quy trình nhận diện trơn tru và không phức tạp. Một chính sách đầu tư bài bản cho việc hiện đại hóa công tác quản lý quyền truy cập và nhận diện người dùng sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao trải nghiệm người dùng trên mọi nền tảng thiết bị số, đồng thời sử dụng các dữ liệu hành vi tiêu dùng để phân tích và hỗ trợ giảm thiểu rủi ro truy cập của khách hàng.
Bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư: Có thêm nhiều khách hàng trực tuyến đồng nghĩa với việc có thêm nhiều dữ liệu nhạy cảm cần phải bảo vệ. Các báo cáo đã đưa ra con số thiệt hại lên tới 3,86 tỷ đô la Mỹ hàng năm chỉ cho riêng việc thất thoát dữ liệu cá nhân (4). Chính bởi vậy, doanh nghiệp và tổ chức càng cần phải đặt yêu cầu kiểm soát bảo mật dữ liệu lên hàng đầu, từ các tác vụ đơn giản như theo dõi đường đi của dữ liệu, cho tới nghi vấn các tác vụ bất thường, mã hóa dữ liệu nhạy cảm… Các doanh nghiệp cũng cần triển khai các chính sách bảo vệ quyền riêng tư của người dùng cả trong thiết bị đặt tại cơ sở (on premise) và trên đám mây để đảm bảo niềm tin cho khách hàng.
Thường xuyên kiểm tra tính khả dụng của các biện pháp bảo mật: Doanh nghiệp cần không ngừng và liên tục kiểm tra các chiến lược cũng như công nghệ bảo mật sẵn có, tái đánh giá hiệu quả của các kế hoạch ứng phó an ninh mạng, thường xuyên kiểm tra các ứng dụng bảo mật và đặt ra các tình huống tấn công giả định.
Nhiều người tiêu dùng trên khắp thế giới đang trở nên quen thuộc và quan tâm đến khái niệm thông tin xác thực kỹ thuật số, cung cấp phương pháp tiếp cận dựa trên công nghệ để xác minh các khía cạnh cụ thể của danh tính và cuối cùng có thể thay thế các hình thức nhận dạng vật lý truyền thống hơn cho một số mục đích sử dụng. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, gần 2/3 (65%) số người được hỏi trên toàn cầu rất quen thuộc với khái niệm thông tin xác thực kỹ thuật số. Các thế hệ trẻ quen thuộc hơn với thông tin đăng nhập kỹ thuật số. Hơn ba phần tư (76%) người được hỏi trên toàn cầu đang sẵn sàng hoặc phần nào có khả năng sử dụng thông tin xác thực kỹ thuật số.
Với việc người tiêu dùng phụ thuộc nhiều hơn vào các tương tác kỹ thuật số với các doanh nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ, họ hiện đang tin tưởng vào ngành nào nhất để bảo vệ an ninh và quyền riêng tư của họ? Kết quả cho thấy rằng các tổ chức ngân hàng và chăm sóc sức khỏe được người tiêu dùng tin tưởng nhất - trong khi mạng xã hội là những tổ chức không đáng tin cậy nhất.
Với việc các kênh kỹ thuật số trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với cuộc sống hàng ngày của chúng ta, niềm tin kỹ thuật số đang trở thành một khía cạnh quan trọng hơn trong mối quan hệ của của các tổ chức, doanh nghiệp với người tiêu dùng. Đảm bảo các chính sách và công nghệ phù hợp được áp dụng để bảo vệ lòng tin và quyền riêng tư của người tiêu dùng phải là một phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các đơn vị này trong tương lai./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. https://hcma.vn/khoa-hoc-thong-tin-tu-lieu/Pages/nghien-cuu-khoa-hoc. aspx?CateID=88&ItemID=30751
[2]. https://www.daibieunhandan.vn/bai-1kiem-soat-nen-tang-truyen-thong-xa-hoi-khongthe-lo-la-sgj9fwwcn4-54173
[3]. https://hcma3.hcma.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-su-kien.aspx?ItemId=49738&CateID=0
[4]. 2020 Cost of Data Breach Report, benchmark study conducted by Ponemon Institute, analyzed and sponsored by IBM Security
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 7 tháng 7/2021)