Tiếp vốn cho doanh nghiệp công nghệ: Kinh nghiệm quốc tế
Thị trường vốn trong phát triển khoa học - công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là rất quan trọng. Tuy nhiên, thị trường vốn Việt Nam hiện nay còn phát triển chưa đều, chưa tương xứng với tiềm năng và cũng chưa đủ sức tài trợ, đồng hành với định hướng phát triển dài hạn của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam.
Thị trường vốn Việt Nam chưa phát triển đồng bộ
Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) dựa trên khoa học công nghệ (KHCN) của Việt Nam ngày càng được cải thiện, với các thành tố chính trong hệ sinh thái từng bước được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Hành lang pháp lý dần được hình thành và hoàn thiện; số lượng doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp tăng trưởng nhanh qua thời gian; số lượng các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp cũng tăng nhanh ở cả khu vực tư nhân và khu vực công...
Bên cạnh nguồn vốn của doanh nhân khởi nghiệp, nguồn vốn cho khởi nghiệp ĐMST đã phát triển với nhiều loại hình như quỹ đầu tư; nhà đầu tư thiên thần; nguồn vốn từ các tập đoàn, DN lớn; vốn vay từ các ngân hàng, quỹ tài chính… Tuy nhiên, nhìn chung thị trường vốn tại Việt Nam chưa phát triển đồng bộ, vì vậy, chưa cung cấp đầy đủ các sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu, đặc thù của nhiều đối tượng trên thị trường, đặc biệt là các startup công nghệ.
Tại toạ đàm “Tạo đòn bẩy thị trường vốn để các công ty công nghệ Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số” do Báo Nhân Dân phối hợp cùng Viện Chiến lược phát triển kinh tế số (IDS) tổ chức ngày 19/3/2025, bà Nguyễn Ngọc Anh, Tổng Giám đốc SSI Asset Management cho biết trong nhiều năm qua việc gọi vốn có hai xu hướng.

Đầu tiên là các DN startup tại Việt Nam có xu hướng thành lập công ty ở nước ngoài. Mặc dù hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, các startup vẫn thành lập các DN ở nước ngoài, cụ thể là tại Singapore, để thực hiện các hoạt động huy động vốn một cách thuận lợi hơn.
Xu hướng thứ hai, theo bà Nguyễn Ngọc Anh, các kỳ lân và các DN gần đạt mức kỳ lân thường đặt ra câu hỏi: Liệu họ có thể huy động vốn tại các thị trường nước ngoài hay không, thay vì đặt câu hỏi rằng họ có thể huy động vốn và niêm yết tại thị trường Việt Nam?
“Đây là những câu hỏi mà chúng tôi nhận được từ hệ thống DN startup và hệ thống DN kỳ lân. Và thực sự gần như không có một DN nào đặt mục tiêu, hoặc niềm tin rằng sẽ thực hiện được huy động vốn và niêm yết tại thị trường Việt Nam”, bà Nguyễn Ngọc Anh chia sẻ.
Bà Nguyễn Hoàng Anh cũng thông tin trong năm 2024, Việt Nam chỉ có 1 đợt IPO, nhưng lượng huy động vốn thì gần như rất nhỏ so với Malaysia hay Indonesia. Và nếu đặt câu hỏi, trong 10 năm vừa qua có DN công nghệ nào thực hiện IPO tại thị trường Việt Nam hay không, thì có lẽ câu trả lời là không. Như vậy, có nghĩa là thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phải là một kênh dẫn vốn cho các DN công nghệ. Đây là một câu hỏi lớn, vì ngay tại các năm 2017, 2018, 2019 là thời điểm đỉnh cao của IPO tại Việt Nam, nhưng Việt Nam không thấy các DN công nghệ.

Từ thời điểm năm 2020 cho đến nay, các DN công nghệ của Việt Nam cũng không xuất hiện trên bản đồ IPO của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trước thực trạng này, bà Nguyễn Hoàng Anh cho rằng cần phải đưa ra giải pháp để biến thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh dẫn vốn hiệu quả cho các DN công nghệ.
Nếu nhìn vào thị trường huy động vốn tư nhân, đối với thị trường Đông Nam Á, tăng trưởng huy động vốn tư nhân của ngành công nghệ là 11%. Tuy nhiên, xu hướng huy động vốn của ngành công nghệ tại Việt Nam lại đang giảm, chỉ còn 372 triệu USD trong năm 2024.

Cùng với đó, thực tế là từ năm 2020 - 2025, hoạt động huy động vốn nói chung ở thị trường Việt Nam chỉ tập trung vào 2 ngành chính: Tài chính và chăm sóc sức khỏe, mà không chú trọng đến ngành công nghệ.
Nghị quyết 57 mở ra cơ hội đầu tư vốn
Để Việt Nam vươn mình phát triển, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW khẳng định rõ: KHCN, ĐMST và CĐS là “đột phá ưu tiên hàng đầu” trong mô hình tăng trưởng mới của đất nước.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện IDS, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn của Thủ tướng cho biết, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tích trong quá trình áp dụng KHCN vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ một nước sử dụng hoàn toàn thiết bị viễn thông, điện thoại, chúng ta đã chuyển hẳn sang điện thoại tổng đài điện tử E10. Như vậy, bối cảnh của chúng ta là đã có những thành công và kinh nghiệm để thực hiện những bước đột phá.
Nghị quyết 57 được ban hành tạo điều kiện cho các cơ quan triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng đã mạnh dạn tăng cường đầu tư nghiên cứu và phát triển. Bản thân Nghị quyết và các văn bản triển khai Nghị quyết cũng đã nâng mức vốn từ Ngân sách nhà nước để phục vụ nghiên cứu phát triển cao hơn,và quy chế hoạt động của nó cũng mở rộng hơn. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đã mở ra cơ hội thu hút ba DN công nghệ hàng đầu đầu tư vốn.
Theo bà Phạm Thị Thuý Chinh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế tài chính Quốc hội, mục tiêu của Nghị quyết số 57, đến năm 2030, quy mô kinh tế quốc tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Kinh phí dành cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí xã hội sẽ chiếm tới 60%.

Thể chế hóa quan điểm trên, ngay tại kỳ họp bất thường lần thứ 9 vừa qua, Quốc hội đã thông qua nhiều nghị quyết nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế. Đặc biệt, Nghị quyết số 193 ngày 19/2/2025 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá cho phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia đã thể chế hóa Nghị quyết 57 một cách cụ thể với nhiều chính sách quan trọng.
Cụ thể, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế tài chính Quốc hội cho biết các chính sách có thể kể đến như việc cho phép tổ chức nghiên cứu KHCN công lập, và các cơ sở giáo dục đào tạo công lập được phép thành lập, tham gia góp vốn và điều hành các DN để ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học. Việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cũng như việc cấp kinh phí nghiên cứu phát triển KHCN theo cơ chế quỹ.
Cùng với đó là ưu đãi thuế thu nhập DN, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân trong nghiên cứu KHCN sử dụng ngân sách trung ương để triển khai các nền tảng số dùng chung và chỉ định thầu các dự án CĐS, hỗ trợ kinh phí cho DN chuyển đổi nhanh 5G đến hết năm 2025. Chính sách phát triển các viễn thông kết nối quốc tế trên biển do DN Việt Nam tham gia góp vốn hoặc làm chủ đầu tư, và không giới hạn phần vốn góp thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông, sử dụng vệ tinh, quỹ đạo tầm thấp, và hỗ trợ tài chính xây dựng nhà máy đầu tiên để phục vụ nghiên cứu, đào tạo, sản xuất chip bán dẫn. Mức hỗ trợ sẽ lên tới không quá 10.000 tỉ đồng, và DN được quyền trích trên 10%. Chi phí sản xuất kinh doanh để thực hiện dự án này sẽ không quá 20% chi phí của mình.
Trong dự kiến chương trình lập pháp của kỳ họp thứ 9 tới đây, Quốc hội sẽ tiếp tục hoàn thiện các luật như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư, Luật KH&CN. Vấn đề huy động nguồn lực tài chính của xã hội cho phát triển KHCN, ĐMST, và CĐS cũng sẽ được quan tâm xem xét.

Kinh nghiệm các nước
Chia sẻ giải pháp, bà Nguyễn Hoàng Anh cho biết các trung tâm tài chính lớn trên thế giới đã linh hoạt hóa điều kiện niêm yết, cho phép DN công nghệ chưa có lợi nhuận tiếp cận vốn dễ dàng hơn để thúc đẩy tăng trưởng.
Thí dụ, một quốc gia rất phát triển như Mỹ đã xây dựng một sàn Nasdaq riêng với những điều kiện riêng phù hợp với đặc thù của DN công nghệ. Điều này cho phép các DN công nghệ có thể niêm yết trên sàn và giúp các nhà đầu tư nhận biết đây là một sàn riêng cho công nghệ, áp dụng đúng tất cả các tiêu chí định giá của DN công nghệ.
Ngay tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ đã đi đầu trong việc nới lỏng điều kiện lợi nhuận IPO, hỗ trợ mạnh mẽ khả năng tiếp cận vốn cho các DN công nghệ sáng tạo.
Trung Quốc đã nới lỏng yêu cầu lợi nhuận, cho phép công ty công nghệ chưa có lợi nhuận niêm yết trên STAR Market (Thượng Hải); tương tự, Ấn Độ áp dụng quy định linh hoạt cho start-up công nghệ trên Innovators Growth Platform (NSE) và SME trên NSE Emerge.
Xu hướng này cũng được phản ánh tại Đông Nam Á, khi hàng loạt quốc gia đã chủ động thành lập các sàn giao dịch với quy định linh hoạt hơn, mở đường cho DN công nghệ tăng trưởng nhanh tiếp cận nguồn vốn hiệu quả. Sàn Catalist (Singapore), ACE Market (Malaysia), Acceleration Board (Indonesia) và Live Exchange (Thái Lan) hướng đến các DN nhỏ và vừa (SME) và startup công nghệ có tiềm năng tăng trưởng, thể hiện cam kết thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế khu vực.
Bà Nguyễn Hoàng Anh đề xuất cổ phiếu Chính phủ có thể được cân nhắc để hỗ trợ các DN công nghệ trong quá trình huy động vốn. Bên cạnh đó, có thể cân nhắc việc xây dựng một sàn giao dịch chuyên nghiệp cho các DN công nghệ.
Trong khi đó, ông Il-Dong Kwon, Giám đốc Điều hành Công ty Tư vấn Boston Consulting Group Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc và Singapore. Trung Quốc có chính sách "rùa biển" - một sáng kiến rất lớn trong 20 năm qua, mời gọi những nhân tài của Trung Quốc từ nước ngoài trở về quê hương, và có rất nhiều cơ chế ưu đãi, ưu tiên, khuyến khích dành cho những nhân tài này. Đặc biệt, chính sách đã góp phần tạo ra động lực rất mạnh mẽ cho sự phát triển của các công nghệ AI và dữ liệu lớn ở Trung Quốc trong những năm qua.
Singapore cũng tương tự khi có những cơ chế mà chúng ta có thể tham khảo và học tập, như cơ chế cấp phép lao động linh hoạt hoặc thuế thu nhập hấp dẫn cho những nhân tài trong lĩnh vực công nghệ.
Chia sẻ kinh nghiệm của Hàn Quốc, ông Chris Chae, Giám đốc điều hành của NEXTRANS cho biết năm 1995 cũng là năm Hiệp hội Đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc được thành lập, đánh dấu thời điểm mà vốn đầu tư mạo hiểm bắt đầu được mang đến cho các DN Hàn Quốc. Họ đã phát triển và tìm ra cách để phát triển các sản phẩm tại Hàn Quốc.
Tháng 5/1996, Chính phủ Hàn Quốc và Hiệp hội Đầu tư Mạo hiểm của Hàn Quốc đã phối hợp để đưa ra một luật đặc biệt nhằm hỗ trợ các DN để khuyến khích đầu tư nhưng chưa phát huy được hiệu quả. Sau khi có những thay đổi bắt buộc, các thành viên trên thị trường đã cùng nhau phát triển, mở rộng thị trường lớn hơn. Rất nhiều DN đã bắt đầu thực hiện các dự án.
Cho đến năm 1998, Chính phủ và Hiệp hội đầu tư mạo hiểm đã đề xuất với Chính phủ Hàn Quốc ban hành một luật mới để hỗ trợ các DN khởi nghiệp. Luật này được ban hành rất nhanh, thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc nuôi dưỡng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở Hàn Quốc. Đã có hàng nghìn DN IPO, mỗi năm có khoảng 124 DN thực hiện IPO trên thị trường.
Khi nhà đầu tư nhận thấy thị trường có nhiều tiềm năng, họ chỉ cần có một cánh cửa an toàn để tham gia thị trường. Khi chúng ta có một thị trường với các yếu tố pháp lý tốt, đó sẽ là giải pháp mà tất cả các bên cùng có lợi. DN sẽ có được vốn, nhà đầu tư có thể đầu tư khi có sự chắc chắn trong tương lai, và họ có thể yên tâm hơn. Điều này sẽ dẫn đến thành công cho tất cả các bên.
Bà Manisha Shah, Phó Tổng Giám đốc tài chính cấp cao của MoMo cho biết bà đã làm việc với MoMo được 7 năm và trải qua 3 vòng gọi vốn. Với mỗi vòng gọi vốn, có rất nhiều quỹ tư nhân cũng như quỹ bảo hiểm tiếp cận.

Thông thường, quá trình này mất nhiều tháng, và các quỹ phải chi rất nhiều tiền để nghiên cứu về các hợp đồng. Họ rất quan tâm đến MoMo, nhưng cuối cùng, các nhà đầu tư của họ ở Mỹ lại không quyết định đầu tư, vì lo lắng về tính thanh khoản hoặc khả năng thoái vốn trong vòng 5, 10 hoặc 15 năm. Cuối cùng, họ quyết định không đầu tư.
"Chúng tôi cũng đủ may mắn khi có một đối tác lớn đến với chúng tôi, nhưng những ứng dụng khác ở Việt Nam lại không nhanh chóng như vậy".
Bà Manisha Shah cho biết mô hình kinh doanh là cực kỳ quan trọng, và khi các nhà đầu tư đầu tư vào chúng tôi, họ đã giúp chúng tôi đánh giá tình hình và nhận thức ra vấn đề, làm việc với các đối tác là ngân hàng để vay tiền từ ngân hàng.
Bên cạnh đó, bà Manisha Shah cho rằng sự chắc chắn và an toàn về công việc của là rất quan trọng. Khi làm việc với một công ty start-up, những người tài năng cũng muốn có sự chắc chắn như vậy. Cùng với đó là hành lang pháp lý cũng như các chính sách khuyến khích cần được cải thiện để mang lại sự tin tưởng cho các bên liên quan.
Cần định hướng phát triển dài hạn cho cộng đồng DN
Qua các thảo luận, Tổng Biên tập Báo Nhân dân cho biết các ý kiến đều thống nhất vai trò của thị trường vốn trong phát triển KHCN cùng với ĐMST, CĐS là rất quan trọng. Tuy nhiên, thị trường vốn Việt Nam hiện nay còn phát triển chưa đều, chưa tương xứng với tiềm năng và cũng chưa đủ sức tài trợ, đồng hành với định hướng phát triển dài hạn của cộng đồng DN công nghệ tại Việt Nam.

Bên cạnh những giải pháp mang tính dài hạn để nâng cao sức mạnh của thị trường vốn, như nâng hạng thị trường chứng khoán, hay xây dựng một sàn chứng khoán riêng cho các DN khởi nghiệp công nghệ, việc mở rộng thị trường vốn thông qua IPO kết hợp với một cơ chế thanh khoản cao được xem là yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển của các công ty công nghệ tại Việt Nam.
Một hệ thống niêm yết linh hoạt, bảo đảm tính thanh khoản không chỉ giúp thu hút dòng vốn dài hạn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, mà còn tạo động lực cho ĐMST. Điều này góp phần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu - phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và gia tăng sức mạnh của DN Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế./.