Sáng 9/11, Ban Kinh tế Trung ương đã chủ trì tổ chức hội thảo chuyên đề "Tư duy và cách tiếp cận mới về CNH-HĐH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Đây là cuộc hội thảo chuyên đề thứ nhất trong chuỗi 10 hội thảo chuyên đề trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao và Triển lãm quốc tế về công nghiệp 4.0 thường niên năm 2021. Diễn đàn thường niên năm nay có chủ đề "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước trong kỷ nguyên số".
Cần tiếp cận mới về CNH-HĐH đất nước
Tại hội thảo, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, trong những năm qua, chủ trương, đường lối về đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã được Việt Nam quan tâm, thực hiện xuyên suốt. Nội hàm, nội dung về CNH, HĐH đất nước đã được không ngừng bổ sung, hoàn thiện qua từng kỳ Đại hội Đảng.
Qua 35 năm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Việt Nam đã có bước chuyển đổi sâu sắc. Từ một quốc gia kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, đến nay Việt Nam đã thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cải thiện và được đánh giá cao. Việt Nam trở thành đối tác hợp tác tin cậy của nhiều quốc gia trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH; cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo; một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới; năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp tăng lên (theo UNIDO, xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam tăng từ vị trí 58 năm 2015 lên thứ 42 vào năm 2019), phát triển công nghiệp từng bước đi vào chiều sâu.
Tuy vậy, TS. Nguyễn Đức Hiển cho biết quá trình CNH, HĐH đất nước còn chậm, năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp, việc tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực. Nhận thức về phát triển nhanh (rút ngắn) quá trình CNH, HĐH đất nước chưa đầy đủ. Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.
Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước... nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các đột phá chiến lược chưa có bứt phá. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển.
Nhấn mạnh tới các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, TS. Nguyễn Đức Hiển cho rằng, vấn đề đặt ra là Việt Nam cần nhận diện được bối cảnh và các xu thế lớn của CNH-HĐH trong thời đại ngày nay để có những tư duy và tiếp cận mới.
Cũng theo TS. Nguyễn Đức Hiển, điểm xuất phát của Việt Nam còn nhiều điều kiện hạn chế về nguồn lực tài chính, nhân lực, trình độ khoa học công nghệ, do đó, cần phải xác định được mô hình, con đường CNH-HĐH và lựa chọn chính sách cho phù hợp.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cũng nhận định ngành công nghiệp Việt Nam còn nhiều điểm nghẽn. Đó là nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu; nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém; trình độ công nghệ của doanh nghiệp (DN) công nghiệp trong nước còn thấp; nguồn lực xã hội chưa tập trung nhiều đầu tư vào sản xuất...
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nêu định hướng chiến lược trong thời gian tới là cần hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, tạo động lực phát triển công nghiệp và thay đổi tư duy, hướng tiếp cận về CNH-HĐH.
Cùng với đó, cần phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn lực để phát triển công nghiệp bền vững, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, trên nguyên tắc dựa trên lợi thế của đất nước, hình thành chuỗi cung ứng trong nước; nâng cao năng lực và tính chủ động của các địa phương, tăng cường liên kết giữa các địa phương, các vùng; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và mức độ thông minh.
5G đóng một vai trò then chốt trong chiến lược CMCN 4.0 của Việt Nam
Ông Alex Rogers,Chủ tịch Qualcomm Technology Licensing và hợp tác đối ngoại của Qualcomm cho biết sản xuất là một phần không thể thiếu trong kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự toàn cầu và sẽ đóng góp tương đương 20% GDP của Việt Nam. Công nghệ 5G sẽ đóng một vai trò then chốt trong chiến lược CMCN 4.0 của Việt Nam và kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030.
Để thực hiện hóa tiềm năng kết nối thông minh trong tương lai, ông Alex Rogers cho rằng phải thúc đẩy phát triển hạ tầng công nghệ mạng 5G và hỗ trợ kiến trúc CNTT. Sự phát triển sang kiến trúc linh hoạt hơn sẽ mang lại hiệu quả về mặt chi phí trong việc xây dựng hạ tầng.
"Công nghệ 5G có thể thúc đẩy nền kinh tế sang ngành kinh tế đổi mới sáng tạo khi đổi mới sáng tạo là nhu cầu ngày càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết khi nhiều công ty, nhiều ngành đang phải đối mặt trước các khó khăn do đại dịch COVID-19", ông Alex Rogers nhấn mạnh.
Ông Thiều Phương Nam,Tổng giám đốc Qualcomm Việt Nam, Lào và Campuchia cho rằng hiện nay, chúng ta đang tiến rất nhanh vào thời đại 4.0 với những công nghệ để hỗ trợ cho các ứng dụng 4.0 bao gồm đám mây, kết nối di động 5G, AI và IoT và các công nghệ hỗ trợ như robot, AR.
Đối với sự phát triển của AI, ông Nam cho rằng kết nối 5G đã tạo ra nền tảng quan trọng để thực hiện công nghiệp 4.0 như nhà máy thông minh, thành phố thông minh. Theo dự báo của Qualcomm đến năm 2024, có khoảng 24 tỷ thiết bị IoT sẽ được kết nối và nền tảng kết nối 5G là một nền tảng kết nối quan trọng vì đáp ứng năng lực kết nối các thiết bị IoT vô cùng lớn. Đây là nền tảng để thực hiện các giải pháp, kiến trúc 4.0.
Ông Nam cũng nhấn mạnh việc xây dựng hạ tầng kết nối 5G là một yếu tố then chốt để thực hiện các chiến lược 4.0 và việc này cần sự hỗ trợ của chính phủ. Theo nghiên cứu của Qualcomm, công nghệ 5G với những ứng dụng 4.0 có thể tạo ra giá trị kinh tế khoảng 13.200 tỷ USD cho thế giới vào năm 2035 và tạo ra 20 triệu việc làm mới cho thế giới. Tại Việt Nam, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0 có thể tạo ra 4.800 tỷ USD vào năm 2035. Đây là một nền tảng, động lực thúc đẩy thực hiện chiến lược CMCN 4.0 trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Ứng dụng công nghệ theo cấp độ mới
Tại hội thảo nhiều chuyên gia quốc tế và Việt Nam đã có những đề xuất đáng chú ý để thúc đẩy CNH-HĐH tại Việt Nam. TS. Arkebe Oqubay, Bộ trưởng - cố vấn đặc biệt cho Thủ tướng Ethiopia cho biết công nghiệp hóa trong kỷ nguyên số mà quá trình chuyển đổi công nghệ đã và đang tăng tốc hiện đang đặt ra thêm các thách thức đối với chúng ta.
Để xuất cho Việt Nam thúc đẩy CNH-HĐH, TS. Arkebe Qqubay cho biết Việt Nam cần khai thác công nghệ theo chiều sâu và tăng cường giá trị công nghệ cho hàng hoá, sản phẩm dịch vụ và phát triển năng lực đổi mới sáng tạo (ĐMST). Công nghệ sẽ cho phép Việt Nam tăng hạng phát triển và duy trì đà tăng trưởng.
Việt Nam cần tập trung ưu tiên phát triển năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D), không chỉ trong nghiên cứu ứng dụng mà còn cả nghiên cứu cơ bản. Năng lực đổi mới cũng đòi hỏi cách tiếp cận và đầu tư dài hạn thông qua các viện nghiên cứu của chính phủ, các trường đại học, các trung tâm R&D của tư nhân. Ngoài ra, việc tăng cường kết nối nghiên cứu và khu vực tư nhân để thúc đẩy năng lực R&D và điều này cần kết hợp việc cung cấp hệ sinh thái công nghệ thông qua hỗ trợ R&D, khởi nghiệp.
"Chuyển đổi hệ thống giáo dục đại học, tăng cường tập trung kỹ thuật, khoa học tự nhiên, và nâng cao chất lượng cho các trường kỹ thuật, thay đổi căn bản nền tảng như nhắm vào các trường KHCN Hàn Quốc đã áp dụng. Việt Nam cũng cần kết hợp giảng dạy nghiên cứu tiên tiến, hợp tác với các tổ chức ngành nghề, có chọn lọc hợp tác các trường đại học nổi tiếng trên thế giới", TS. Arkebe chia sẻ.
TS. Arkebe cũng đề xuất cần quan tâm chuyển đổi xanh, công nghiệp hóa và trung hòa carbon. CMCN lần thứ 4 phải là cách mạng xanh, theo đó, có thể đưa Việt Nam phát triển bền vững và cạnh tranh.
Về chuyển đổi số, theo TS. Arkabe, Việt Nam cần khai thác các ngành công nghiệp mới, tạo lợi thế cạnh tranh trong các thập kỷ tới như công nghiệp xe điện đang nổi lên ngành công nghiệp mới hay tập trung cho y tế mà đại dịch đã chứng minh.
"Công nghệ số với trọng tâm khai thác công nghệ AI, máy học, tự động hoá, người máy… có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cấp các ngành công nghiệp và việc làm. IoT, mạng viễn thông mới, thương mại điện tử, các dịch vụ trực tuyến sẽ là thiết yếu. Phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là lĩnh vực giao thông, truyền thông, năng lượng sẽ phải hỗ trợ quá trình CĐS và cũng cần phải tích hợp với các công nghệ số tiên tiến khác", TS. Arkebe nhấn mạnh.
Còn theo TS. Giulia Ajmone Marsan, Giám đốc Chiến lược và Đối tác của Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA), Việt Nam cần tăng cường kỹ năng STEM cho học sinh từ cấp phổ thông. Thành công của một quốc gia là bao trùm, bền vững… và dữ liệu mới, phân tích dữ liệu cũng quan trọng đối với các quốc gia mới nổi khi cho thấy những khả năng lớn.
TS. Gaurav Nayar từ Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng thế giới đang dịch chuyển giá trị, lấy trọng tâm là ứng dụng công nghệ khi hướng tới tương lai. Nền kinh tế số mang lại nhiều cơ hội hơn để tham gia vào quá trình sản xuất trên thế giới. Theo đó, ứng dụng công nghệ không như trước nên cần có các biện pháp áp dụng công nghệ và các công ty phải nhận thức được việc này. Mức độ áp dụng công nghệ rất quan trọng, vì vậy cần có các công ty dẫn đầu, tiếp theo các công ty cấp trung và nhỏ hơn./.