Bước ngoặt mới cho phát triển nông nghiệp Đồng Bằng Sông Cửu Long từ một Đề án
Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)” đang được Bộ NN&PTNT gấp rút hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây được xem là “đòn bẩy” quan trọng để phát triển ngành trồng lúa ở khu vực này theo hướng bền vững, cho giá trị kinh tế cao.
Ngành lúa gạo ĐBSCL chưa phát triển tương xứng với tiềm năng
Theo ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Việt Nam luôn là một trong những quốc gia có lượng gạo xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 2022, xuất khẩu gạo của nước ta đạt 7,17 triệu tấn, trị giá 3,49 tỉ USD - tăng 6,2% so với năm 2021. Trong đó, ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo chính của Việt Nam với sản lượng lúa luôn ổn định ở mức 24-25 triệu tấn/năm. ĐBSCL chiếm trên 50% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, ngành hàng lúa gạo ĐBSCL vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục nhằm hướng tới sản xuất bền vững và hiệu quả.
Thu nhập của nông dân trồng lúa ở ĐBSCL còn thấp do quy mô sản xuất nhỏ lẻ và chất lượng gạo chưa đồng đều. ĐBSCL chưa có những vùng chuyên canh lúa quy mô lớn với sự liên kết, hợp tác giữa người trồng và HTX, doanh nghiệp. Các biện pháp canh tác kém bền vững; nông dân còn sử dụng nhiều phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học. Nếu hệ thống canh tác này không thay đổi thì sẽ gây nguy cơ suy giảm tài nguyên, lãng phí đầu vào; ảnh hưởng đến môi trường, làm phát thải khí nhà kính.
Ông Li Gou - chuyên gia cao cấp về nông nghiệp của Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam nhận định, nhu cầu tiêu thụ gạo trên thế giới đang tăng lên, giá cả khá tốt; đây là điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu gạo như Việt Nam tăng cường cung ứng gạo ra thế giới. Thuận lợi là vậy, song nếu nhìn toàn diện thì thời gian qua nông dân trồng lúa ở các tỉnh ĐBSCL thu nhập chưa như mong muốn, ít hộ giàu lên từ cây lúa…
Nguyên nhân do lợi nhuận mà cây lúa mang lại chưa bằng cây ăn trái hay nuôi thủy sản, sản xuất ở dạng nhỏ lẻ, manh mún còn phổ biến, thiếu liên kết chuỗi giá trị, thiếu thương hiệu... Đơn vị sản xuất lúa hiện nay chủ yếu vẫn là hộ gia đình quy mô nhỏ, phân tán, áp dụng phương thức sản xuất truyền thống đang là trở ngại đối với việc đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, liên kết sản xuất, thu mua, chế biến, xuất khẩu và không thể hình thành vùng nguyên liệu hàng hóa quy mô lớn,…
Từ những lý do nêu trên và thực hiện Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, Bộ NN&PTNT đang xây dựng Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL”. Đây được xem cơ hội tốt để tái cơ cấu, tìm hướng đi mới cho lúa gạo vùng ĐBSCL.
Tăng giá trị sản xuất, bảo vệ môi trường bền vững
Tính đến nay, có 12/13 tỉnh thành ở ĐBSCL (trừ tỉnh Bến Tre, do diện tích lúa còn ít) đăng ký tham gia Đề án với định hướng năm 2025 đạt 719.000ha và đến năm 2030 đạt hơn 1 triệu ha. Trong đó, An Giang, Kiên Giang, Long An và Đồng Tháp là những tỉnh đăng ký diện tích tham gia nhiều nhất…
Mục tiêu quan trọng của Đề án là tổ chức lại việc sản xuất lúa theo hướng bền vững, hình thành các vùng trọng điểm sản xuất lúa với quy mô lớn có sự đầu tư bài bản, liên kết chuỗi giá trị, nâng cao giá trị hạt gạo, tăng thu nhập nhiều hơn cho nông dân trồng lúa; đồng thời xây dựng thương hiệu gạo, tăng tính cạnh tranh trên thế giới. Phát triển 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao lần này cũng nhằm mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thân thiện với môi trường, gắn với tăng trưởng xanh. Đề án có thể bán tín chỉ carbon trước mắt ở 200.000 ha lúa và sau đó nhân rộng.
Theo Bộ NN&PTNT, Đề án chia làm 2 giai đoạn, triển khai tại 12 tỉnh, thành: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau, Tiền Giang và Vĩnh Long; với tổng diện tích khoảng 1 triệu ha chuyên canh lúa đến năm 2030.
Giai đoạn 1 thực hiện từ khi Đề án được phê duyệt đến năm 2025. Trong năm 2024, cơ quan chức năng sẽ kiểm đếm, cấp tín chỉ carbon cho diện tích trong dự án VnSAT tài trợ từ năm 2017 - 2022 (khoảng 180.000 ha) ở Long An, Tiền Giang, An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng và Hậu Giang. Bộ NN&PTNT sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và nhà tài trợ để chứng nhận và phát hành tín chỉ carbon cho những diện tích đã đạt chuẩn. Trong giai đoạn 2 (2026 - 2030), mở rộng dần với sự đầu tư thêm cơ sở hạ tầng để hướng tới mục tiêu khoảng 1 triệu ha vào năm 2030.
Về hiệu quả kinh tế, mục tiêu là giảm 20% chi phí sản xuất (tương đương 9.000 tỉ đồng/năm) nếu xây dựng vùng chuyên canh 1 triệu ha (sản lượng 13 triệu tấn lúa). Giá bán lúa dự kiến tăng 10% so với canh tác truyền thống. Nếu tính tổng thể 1 triệu ha (hay 13 triệu tấn lúa), ước lợi nhuận từ sản xuất lúa tăng khoảng 15.000 tỉ đồng.
Đề án dự kiến sẽ có 12.000 tỉ đồng vốn, trong đó có 3.000 tỉ đồng từ vốn ngân sách nhà nước, 8.400 tỉ đồng vốn xã hội hóa, còn lại là từ các nguồn vốn khác. Nông dân khi tham gia Đề án sẽ được hỗ trợ 30% chi phí mua giống lúa trong bốn vụ đầu liên tiếp. Được vay ngân hàng không thế chấp tối đa 20 triệu/vụ sản xuất (thời gian vay trong 6 tháng) trong thời gian tham gia liên kết.
Theo đại diện WB tại Việt Nam, WB hỗ trợ khoảng 40 triệu USD cho Đề án 1 triệu ha lúa giảm phát thải, 60 triệu USD để phát triển thị trường tín chỉ carbon sau năm 2027, thêm 20 triệu USD không hoàn lại để hỗ trợ Đề án. WB mong muốn phối hợp cùng Bộ NN&PTNT và các nhà tài trợ thực hiện các dự án ở ĐBSCL.
Ông Animesh - chuyên gia cao cấp về kinh tế nông nghiệp của WB (tại Hoa Kỳ), chia sẻ thêm: “Lúa là cây trồng chủ lực và truyền thống của nông nghiệp Việt Nam nhiều năm qua, vì vậy chúng tôi rất quyết tâm cùng Bộ NN&PTNT phát triển Đề án này nhằm tăng thu nhập cho nông dân ĐBSCL. Đây là cách tốt nhất để phát triển cây lúa bền vững và đảm bảo an ninh lương thực…”.
Quan điểm của Bộ NN&PTNT là huy động nguồn lực xã hội tham gia, nguồn lực của các doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức quốc tế và tổ chức tín dụng; trong đó có hỗ trợ một phần về cơ chế, chính sách của Nhà nước cho các chủ thể sản xuất.