Cần thiết phải có định danh điện tử để tiếp cận TMĐT, dịch vụ số

Lan Phương| 01/10/2019 19:09
Theo dõi ICTVietnam trên

Các chuyên gia về lĩnh vực định danh và xác thực điện tử đã nhấn mạnh nội dung này tại Hội thảo “Định danh và xác thực điện tử: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn triển khai tại Việt Nam”.

Hội thảo được Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NEAC) thuộc Bộ TTTT, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc phối hợp tổ chức.

Tham dự Hội thảo có đại diện các Bộ Công an, Tư pháp, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ, Sở TTTT của 9 tỉnh/thành phố khu vực phía Bắc, các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp (DN) viễn thông, cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số và các chuyên gia của WB.

Không có định danh điện tử không thể triển khai chuyển đổi số

Chủ trì hội thảo, Giám đốc NEAC Lã Hoàng Trung cho biết ngày 24/6/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 44/NQ-CP thông qua đề nghị xây dựng Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử. Thực hiện Nghị quyết 44, trong thời gian qua, NEAC đã rất khẩn trương phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ TTTT, các đơn vị, cơ quan, tổ chức ngoài Bộ TTTT, các DN và chuyên gia để xây dựng Dự thảo Nghị định.

Ông Lã Hoàng Trung, Giám đốc NEAC

Theo Dự thảo của Nghị định, “Định danh điện tử” (e-Identification - eID) là quá trình xác định danh tính điện tử của cá nhân, tổ chức. “Xác thực điện tử (e-Authentication) là việc xác minh danh tính điện tử của người sử dụng, là điều kiện bắt buộc để cho phép thực hiện giao dịch điện tử".

Đại diện của NEAC tại Hội thảo cho biết: Hiện nay, Bộ Tư pháp có cơ sở dữ liệu (CSDL) hộ tịch điện tử gồm 17,6 triệu công dân; Bộ Công an có CSDL về dân cư dự kiến cập nhật 96 triệu công dân; Bộ Kế hoạch và Đầu tư có CSDL quốc gia về đăng ký DN gồm 1,4 triệu DN bao gồm cả DN đã giải thể; Bộ Tài chính có CSDL đơn vị có quan hệ ngân sách khoảng gần 142.000 đơn vị, Bảo hiểm xã hội Việt Nam có CSDL của 81,3 triệu cá nhân, 06 triệu tổ chức; Tổng cục Thuế có CSDL người nộp thuế của 50 triệu cá nhân, 720.000 tổ chức; Ngân hàng có CSDL khách hàng của 78 triệu cá nhân, 2 triệu tổ chức và DN viễn thông có CSDL thuê bao trả trước là 125 triệu cá nhân, 4 triệu tổ chức và thuê bao trả sau là 7,5 triệu cá nhân và 2,6 triệu tổ chức.

Ông Jonathan Marskell, chuyên gia của WB cho biết: ước tính 1 tỷ người trên thế giới không có bất kỳ 1 ID căn bản nào. Ngày càng có nhiều người hơn có ID căn bản, nhưng không đảm bảo hoặc không xác minh được bằng kỹ thuật số. Họ gặp phải rào càn khi tiếp cận dịch vụ, quyền và cơ hội do nền kinh tế số tạo ra.

Hệ thống ID là nền tảng căn bản cho bất kỳ dịch vụ nào có tương tác với con người. Chỉ tiêu 16.9 trong mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc đã nêu rõ: “Đến năm 2030, cung cấp định danh hợp pháp cho tất cả công dân, bao gồm cả đăng ký khai sinh”.

Triển khai ID số quốc gia là một cơ hội để chuyển đổi quốc gia thông qua chuyển đổi dịch vụ trực tuyến và trao đổi cho mọi người quyền kiểm soát lớn hơn đối với dữ liệu của họ.Không có ID thì khó tiếp cận thương mại điện tử, dịch vụ chính quyền số…”, ông Jonathan Marskell nhấn mạnh.

Kinh nghiệm quốc tế và triển khai tại Việt Nam

Cũng theo ông Jonathan Marskell, định danh cơ bản là lòng tin (trust), yếu tố căn bản nhất của danh tính (ID). Khi xã hội trở nên rộng hơn và kỹ thuật số hơn, cần có các cơ chế mới để thiết lập lòng tin. Mọi người có nhu cầu có khả năng chứng minh được họ là ai một cách đáng tin cậy trực tuyến. ID số thúc đẩy lòng tin, sự bao trùm và tính riêng tư trong nền kinh tế số.

Ví dụ tại Ấn Độ, có kiến trúc bảo vệ và trao quyền dữ liệu của India Stack tạo điều kiện cho chia sẻ trên cơ sở đồng thuận các tài chính dữ liệu. Ở Estonia, 99% dịch vụ chính phủ được cung cấp trực tuyến, tiết kiệm cho trung bình một cư dân 5 ngày/năm. Thái Lan có PromptPay sử dụng mã số ID quốc gia, tăng 83% lượng thanh toán điện tử trong năm 2018.

Quy định về định danh và xác thực điện tử của EU (eIDAS) tạo ra khuôn khổ lòng tin cho sự công nhận lẫn nhau về ID số, một điều kiện thiết yếu cho thị trường số chung. Việc sử dụng xuyên biên giới ID điện tử có độ tin cậy cao mang lại cho người châu Âu một sự tự do mới: dựa trên ID điện tử họ đã sử dụng ở quốc gia mình và tiếp cận một cách an toàn dịch vụ được cung cấp ở bất cứ nơi nào trên khắp EU.

Các chủ thể chính của ID gồm người dùng (người nắm giữ ID); nguồn có căn cứ đích xác: cơ sở xác thật cho bất kỳ thông tin nào liên quan đến người dùng và các bên phụ thuộc; Nhà cung cấp ID cung cấp giấy chững nhận ID cho một người dùng; Bên phụ thuộc: một nhà cung cấp dịch vụ phụ thuộc vào việc xác thực thông qua hệ thống ID, ví dụ như Bộ Ngoại giao.

Toàn cảnh Hội thảo

Ông Jonathan Marskell tư vấn xây dựng hệ thống định danh phải thiết kế hệ thống đơn giản, đừng phức tạp. Tiếp theo, bắt đầu thực hiện với một số trường hợp điển hình chứ không bắt tất cả mọi người dân áp dụng cùng lúc.

Bên cạnh đó, cần phát triển nhiều trường hợp sử dụng: dịch vụ điện tử, an sinh xã hội, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, và giao dịch qua biên giới.

Thiết kế hệ thống tối ưu nhất sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu và sở thích của người dùng (công dân và cư dân) và các bên phụ thuộc, cũng như bối cảnh quốc gia. Estonia, Ấn Độ, Singapore và Thái Lan là những thực tiễn tốt điển hình xây dựng hệ thống

Khi thiết kế hệ thống ID phải lấy con người làm trung tâm. Sự thành công của định danh số phụ thuộc vào cách thiết kế từ dưới lên - không phải từ trên xuống, cho phép mọi người kiểm soát và dữ liệu cá nhân của riêng mình, tạo điều kiện cho tính di động của dữ liệu; Hiểu và giải quyết được mối quan tâm và lo ngại của mọi người (ví dụ sự riêng tư), đặc biệt những người bị thiệt thòi và dễ bị tổn thương nhất; Tập trung vào thiết kế và trải nghiệm người dùng lấy con người làm trung tâm và tham vấn người dân, ông Jonathan Marskell nhấn mạnh.

Trong khi đó, ông Vũ Minh Đức, đại diện VNPT-IT chia sẻ kinh nghiệm khi nghiên cứu triện khai định danh điện tử ở hai nước Đan Mạch và Singapore.

Đan Mạch với giải pháp NemID là hình thức xác thực điện tử để cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, các trang web của cơ quan nhà nước, các dịch vụ ngân hàng và một số đơn vị tư nhân từ tháng 7/2010. Khoảng 4,7 triệu công dân Đan Mạch (trong tổng số 5,7 triệu dân) sử dụng NemID và hơn 55 triệu giao dịch được thực hiện hàng tháng. Hình thức xác thực nhiều yếu tố.

Trong khi đó, Singapore có 2 hệ thống xác thực, 1 cho người dân (Singpass) và 1 cho DN, tổ chức (Corpass). Để cấp tài khoản cần có địa chỉ cố định để nhận thông tin về tài khoản, mật khẩu và đăng ký số điện thoại di động (bắt buộc) và địa chỉ thư điện tử (tùy chọn). Một số điện thoại, địa chỉ thư điện tử chỉ gắn với một cá nhân duy nhất.

Hệ thống xác thực Singpass sử dụng 2 yếu tố: tài khoản/mật khẩu và mật khẩu sử dụng một lần (OTP) hoặc tài khoản/mật khẩu và token cung cấp khóa xác thực. Tháng 10/2018, vận hành thử nghiệm xác thực qua ứng dụng trên thiết bị di động (SingpassMobile) và vân tay/mật khẩu.

VNPT-IT hiện là đơn vị xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử trên cổng dịch vụ công quốc gia Việt Nam. Mô hình kiến trúc hiện tại là Văn phòng Chính phủ xây dựng 1 hoạt động IDP (Cung cấp, quản lý định danh điện tử của cá nhân, tổ chức; xác thực điện tử cá nhân, tổ chức) trong giai đoạn Việt Nam chưa có Nghị định định danh điện tử và chưa có các IDP. Trong tương lai, Văn phòng chính phủ sử dụng dịch vụ định danh và xác thực các IDP khác.

Bà Trần Thị Lan Hương, chuyên gia của WB tại Việt Nam cho biết thêm: việc xây dựng định danh số là câu chuyện đường dài, cần thiết phải xây dựng hệ sinh thái. Việc xây dựng hệ thống định danh không làm phân tán hệ thống định danh sẵn có, cần có sự tham gia của nhiều cơ quan như Bộ Công An, Tư pháp, Thuế vì xây dựng hệ thống định danh điện tử phải so sánh với các cơ sở dữ liệu của các đơn vị này. Việc bảo đảm an toàn thông tin và bảo mật thông tin cá nhân cũng là yếu tố quan trọng cần được quan tâm khi xây dựng hệ thống.

Bài liên quan
  • New Zealand ra mắt Khung định danh số an toàn
    Chính phủ New Zealand vừa hoàn thiện “Khung tin cậy cho dịch vụ nhận diện số”, đánh dấu bước đầu trong việc triển khai các dịch vụ nhận diện số tại quốc gia này.
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
  • Việt Nam - Malaysia nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện
    Phát biểu tại họp báo, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Việt Nam-Malaysia tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực mới (như kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, năng lượng xanh...).
  • Chìa khóa giải quyết thách thức trong bảo vệ trẻ em trên không gian mạng
    Trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Đây không chỉ là bài toán của riêng Việt Nam mà còn là thách thức toàn cầu đòi hỏi sự chung tay hợp tác từ nhiều phía.
  • Việt Nam đang đối mặt 3 thách thức an toàn thông tin
    Các cuộc tấn công mạng hiện nay ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, đặc biệt khi có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, việc kết hợp công nghệ này với trí tuệ của con người đã giúp phát hiện và phòng, chống tấn công mạng hiệu quả hơn.
  • Chuyển đổi số thành công không thể thiếu “niềm tin số”
    Muốn triển khai hiệu quả chiến lược số hóa quốc gia cần triển khai theo hướng tiếp cận từ trên xuống dưới và phải phù hợp với thực tế, đảm bảo có tầm nhìn rộng trong tương lai.
  • Việt Nam - Hàn Quốc đồng hành trong kỷ nguyên AI
    Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm hy vọng, Việt Nam có thể học tập nhiều hơn từ Hàn Quốc về các bài học kinh nghiệm, cách làm hay để phát huy tối đa vai trò công nghệ số nói chung và trợ lý ảo nói riêng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo lập xã hội số nhân văn và thu hẹp khoảng cách số.
Đừng bỏ lỡ
  • Bốn giải pháp trọng tâm để giải bài toán an toàn dữ liệu quốc gia
    Theo Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương, năm 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong lĩnh vực an toàn thông tin. Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức cần vượt qua để đảm bảo an toàn dữ liệu quốc gia.
  • Việt Nam tăng cường hợp tác phát triển công nghệ số với Burundi và NIPA
    Trong khuôn khổ sự kiện Tuần lễ Số quốc tế 2024, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ Truyền thông, Công nghệ Thông tin và Đa phương tiện Burundi Léocadie Ndacayisaba và ông Hur Sung Wook, Chủ tịch Cục Xúc tiến Công nghiệp CNTT quốc gia Hàn Quốc (NIPA).
  • Chính thức ra mắt Nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin
    Nền tảng hướng tới nâng cao chất lượng và điều phối hiệu quả các hoạt động diễn tập trên toàn quốc thông qua nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin.
  • Robot Delta hữu dụng trong nhiều ngành
    Nhờ vào thiết kế độc đáo và khả năng hoạt động với tốc độ và độ chính xác cao, robot Delta là một giải pháp tối ưu trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại.
  • Cà Mau ứng dụng các phần mềm chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp
    Ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã không ngừng triển khai các giải pháp chuyển đổi số thông qua việc sử dụng các phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ quản lý, điều hành. Trong tương lai không xa, các phần mềm này sẽ hoàn thiện và bắt kịp xu hướng công nghệ để hỗ trợ người nông dân nhiều hơn trong việc tăng gia sản xuất.
  • Bảo vệ các hệ thống mạng trọng yếu là cấp thiết
    Song song với tiến trình chuyển đổi số, các chiến dịch tấn công mạng, gián điệp và khủng bố mạng nhằm vào hệ thống công nghệ thông tin (IT) và công nghệ vận hành (OT) trọng yếu ngày càng gia tăng, việc đảm bảo an ninh mạng trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia.
  • ‏OPPO Find X8 Series sẽ chính thức lên kệ ngày 7/12‏
    Ngày 21/11, OPPO chính thức ra mắt Find X8 Series‏‏ tại Việt Nam và sẽ lên kệ ngày 7/12 tới. Đây là lần đầu tiên người dùng Việt Nam được trải nghiệm dòng flagship cao cấp nhất của OPPO cùng lúc với toàn cầu. ‏
  • Chuyển đổi số từ thực tiễn Báo Hải Dương
    Báo Hải Dương có nhiều thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi số. Đó là Ban Biên tập có quyết tâm cao. Đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên của báo nhanh nhạy với cái mới, ham học hỏi...
  • Đưa siêu ứng dụng "Công dân Thủ đô số - iHanoi" vào cuộc sống
    “Công dân Thủ đô số” - iHaNoi là kênh tương tác trực tuyến trên môi trường số giữa người dân, doanh nghiệp với các cấp chính quyền thành phố Hà Nội. Qua ứng dụng này, người dân và doanh nghiệp có thể phản ánh các vấn đề đời sống, từ đó giúp chính quyền tiếp nhận và giải quyết kịp thời.
  • Sự gia tăng của ứng dụng AI tạo sinh: Những rủi ro tiềm ẩn cho xã hội và con người
    AI tạo sinh là một trong những thành tựu công nghệ mới nhất của con người trong thập niên 20 của thế kỷ XXI. Cho đến nay, sự ứng dụng của AI tạo sinh đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng trong các nghiên cứu xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. AI tạo sinh đã thách thức nhiều khái niệm và định kiến của chúng ta về bản thân mình, đặc biệt là về cách chúng ta hiểu về tư duy và bản chất của tư duy con người.
Cần thiết phải có định danh điện tử để tiếp cận TMĐT, dịch vụ số
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO