Hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu do hãng tàu nước ngoài đảm nhận
Ông Hoàng Hồng Giang, Cục phó Cục Hàng hải Việt Nam đã nhận định tiềm năng đội tàu vận tải biển quốc tế là rất lớn nhưng cũng còn không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Biển Việt Nam thuộc bên bờ biển Đông, trong đó vùng biển rộng trên 1 triệu km 2 dài khắp cả nước, là con đường giao thương hàng hóa quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đặc biệt, hoạt động thương mại trên biển Đông của các nước thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương diễn ra sôi nổi. Điều này thể hiện nước ta có mạng lưới vận tải đường biển nhộn nhịp, đông vui và năng động nhất các vùng biển thế giới.
Thực tế, tính đến tháng 12/2021, cả nước có 1.032 tàu vận tải biển chuyên dụng với tổng dung tích khoảng 6,3 triệu GT và khoảng 10,6 triệu DWT, chủ yếu là cỡ tàu nhỏ (từ 5.000 GT trở xuống) và cỡ tàu trung bình (từ trên 5.000 GT đến 10.000 GT). Trong đó chủ yếu là hàng tàu tổng hợp và hàng rời với số lượng 724 tàu (chiếm 77%), đội tàu container tính đến thời điểm hiện tại là 41 tàu, còn lại là tàu chở dầu, hóa chất. Theo đó, trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với hàng loạt các khó khăn, Việt Nam tiếp tục tăng trưởng về lượng hàng hóa thông qua cảng biển, lượng hàng hóa thông qua cảng biển đang ở múc hơn 706 triệu tấn, trong đó lượng hàng hóa container đạt gần 24 triệu TEUs.
Hệ thống cảng biển Việt Nam trong những năm qua phát triển đồng bộ, hiện đại đón được những tàu biển lớn nhất thế giới vào làm hàng. Về cơ bản, hệ thống cảng biển đáp ứng được nhu cầu tàu thuyền ra vào cảng, thời gian tàu đợi cầu rất thấp, đáp ứng thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng vận chuyển nội địa.
Tuy nhiên, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bằng container ở Việt Nam lại chủ yếu do hãng tàu nước ngoài đảm nhận, đặc biệt tuyến biển xa đến các nước phát triển như châu Âu, Mỹ. Đội tàu trong nước hiện chủ yếu đảm nhận phần vận tải nội địa, hoạt động tuyến quốc tế ngắn trong khu vực châu Á. Thị phần vận tải biển tuyến quốc tế của đội tàu vận tải biển Việt Nam đang có xu hướng giảm, trong khi đó đội tàu mang cờ nước ngoài thuộc sở chủ tàu Việt Nam có xu hướng tăng trong thời gian qua.
Thị phần vận tải hàng xuất nhập khẩu do đội tàu biển Việt Nam đảm nhận đã giảm dần từ 11% năm 2015 xuống 5% năm 2019 - 2020 và đạt 7% năm 2021. Trong khi đó, từ năm 2015 - 2021, lượng hàng container thông qua cảng biển Việt Nam nói chung, lượng hàng container xuất nhập khẩu và hàng nội địa nói riêng thông qua cảng biển Việt Nam có xu hướng tăng dần, đây là một thực tế đáng báo động về tình hình phát triển của đội tàu biển của nước ta.
Cơ cấu đội tàu biển trong nước cũng chưa hợp lý, chủ yếu tàu trọng tải nhỏ chở hàng khô, hàng rời; thiếu tàu container và tàu trọng tải lớn chạy tuyến quốc tế.
Bên cạnh đó, nhân lực vận tải biển, hiện còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Thị trường quốc tế rộng lớn, giá cước cao nhưng sức cạnh tranh của đội tàu vận tải biển của Việt Nam yếu, khó dành được hợp đồng vận chuyển. Thị trường vận tải nội địa không lớn nhưng số lượng tàu nhiều, dẫn tới tình trạng cạnh tranh cao, giảm giá cước, làm hiệu quả hoạt động của các chủ tàu không cao.
Bên cạnh đó, khả năng đáp ứng được yêu cầu về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, lao động hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường đối với phần lớn tàu vận tải quốc tế còn rất hạn chế dẫn đến tình trạng tàu biển Việt Nam bị lưu giữ ở cảng biển nước ngoài với số lượng khiếm khuyết cao.
Tăng gấp đôi thị phần vào năm 2026
Việt Nam đang mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do. Điều này đang mở ra nhiều cơ hội cho đội tàu biển của Việt Nam, song cũng tạo ra thách thức là giảm thị phần do đội tàu vận tải container nước ngoài thâm nhập thị trường vận tải nội địa. Trong bối cảnh đó, việc phát triển đội tàu vận tải biển được đánh giá là rất cần thiết, kỳ vọng sẽ giảm phụ thuộc vào đội tàu của nước ngoài.
Bộ trưởng Bộ GTVT vừa ký Quyết định số 1254/QĐ-BGTVT về việc phê duyệt Đề án phát triển đội tàu vận tải biển của Việt Nam.
Quan điểm xuyên suốt của Đề án là phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của đất nước, đặc biệt là tiềm năng biển để phát triển vận tải biển một cách đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi thích hợp; đẩy mạnh phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển mới của thế giới; phát triển đội tàu chuyên dụng container phù hợp, mở rộng mạng lưới để tăng thị phần vận chuyển khu vực châu Á, đặt nền móng vững chắc cho việc khai thác tuyến vận tải xa trong thời gian tới.
Ba mục tiêu của Đề án là đánh giá bức tranh toàn cảnh thực trạng đội tàu vận tải biển hiện có của Việt Nam; đề xuất được loại tàu phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam và quốc tế cần được phát triển trong thời gian tới, cùng với các cơ chế chính sách cần thiết để xây dựng và phát triển đội tàu này, nhằm đảm bảo thị phần vận tải nội địa và nâng cao năng lực vận tải quốc tế, để từ đó góp phần giảm chi phí logistic và bảo đảm duy trì tính chủ động, ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam khi có những yếu tố biến động bất lợi của thị trường.
Bên cạnh đó, Đề án còn đặt mục tiêu tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực vận tải biển; hoàn thiện các quy định thể chế pháp luật, tạo khung pháp lý minh bạch, thông thoáng, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
Mục tiêu thứ ba là tăng gấp đôi thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu qua cảng biển Việt Nam bằng đội tàu biển Việt Nam lên 10% vào năm 2026 và đạt 20% vào năm 2030./.