Củng cố vai trò “Trụ đỡ nền kinh tế” của nông nghiệp

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Bích | 16/12/2021 09:53
Theo dõi ICTVietnam trên

Trong điều kiện dân cư khu vực nông thôn của nước ta vẫn còn rất đông và nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng rất đáng kể trong nền kinh tế, đây chính là những lợi thế để khu vực này gánh vác vai trò trụ đỡ của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng những năm gần đây, đặc biệt là “cơn bão COVID-19” đang tàn phá kinh tế toàn cầu hiện nay. Chắc chắn cơn bão này sẽ còn tiếp tục ít nhất là trong năm 2022, vậy làm gì để củng cố vai trò trụ đỡ này để giúp chúng ta tiếp tục bứt phá mạnh hơn nữa trong cuộc đua phát triển kinh tế khu vực và thế giới.

Thành tựu lớn 

Trước hết, như các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, bình quân 3 năm 2017 - 2019, GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (NLN&TS) trong 9 tháng đầu năm chỉ tăng 3,19%, bằng 38,34% so với nhịp tăng kỷ lục 8,32% của khu vực công nghiệp và xây dựng (CN&XD) và cũng chỉ bằng 45,33% của khu vực dịch vụ. Không những vậy, cũng trong 3 năm này, khi hai khu vực CN&XD và dịch vụ đã vươn lên rất nhanh và chiếm bình quân hơn 3/4 "rổ GDP", còn của khu vực NLN&TS thì vẫn đang trên đà "co lại" và bình quân chỉ còn chiếm 14,62%. Những thực tế đó có nghĩa là, muốn nền kinh tế phát triển nhanh, nước giàu, dân mạnh, hướng đi tất yếu phải đẩy mạnh phát triển CN&XD và dịch vụ. Thế nhưng, khi "cơn bão COVID-19" tràn vào nước ta từ đầu năm 2020, đặc biệt kể từ khi biến chủng Delta hoành hành dữ dội, câu chuyện nói trên đã có những thay đổi vô cùng lớn. Đó là, nhịp độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ đã "tụt dốc không phanh" xuống chỉ còn 4,05% và 9 tháng đầu năm nay vẫn tiếp tục giảm rất mạnh xuống chỉ còn 3,57%, đặc biệt khu vực dịch vụ đã liên tiếp "rơi tự do" xuống chỉ còn 1,12%, rồi "âm" 0,69%. Trong khi đó, nhịp độ tăng trưởng của khu vực NLN&TS 9 tháng đầu năm 2020 tuy cũng giảm so với cùng kỳ, nhưng vẫn còn đạt 2,01%, đặc biệt 9 tháng đầu năm nay đã vươn lên rất mạnh, đạt 2,74%.

Củng cố vai trò “Trụ đỡ nền kinh tế” của nông nghiệp - Ảnh 1.

Thực tế đó cũng có nghĩa là, thay vì hoàn toàn "lép vế", khu vực NLN&TS đã liên tiếp có những đóng góp lớn hơn trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh cả hai nguồn động lực chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ bị suy giảm rất mạnh. Không những vậy, cũng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, sự phát triển rất đáng khích lệ của khu vực NLN&TS đồng nghĩa với việc vẫn tạo ra việc làm và thu nhập không hề nhỏ cho bộ phận dân cư đông đảo và rất nghèo của nước ta. Các số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nếu như giá trị gia tăng của khu vực NLN&TS nước ta năm 1999 mới chỉ đạt 7,31 tỷ USD và chỉ mới xếp thứ 33 trong danh sách 220 các quốc gia và vùng lãnh thổ thế giới, đến năm 2019 đã đạt 36,56 tỷ USD, vươn lên xếp thứ 17, nhảy vọt 16 bậc. Sở dĩ chúng ta đã đạt được thành tựu rất đáng tự hào đó là bởi, nhịp độ tăng trưởng bình quân của khu vực kinh tế này trong 20 năm đã đạt 8,59%/năm, cao thứ tư thế giới, thua kém không nhiều so với Top 5 thế giới, gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Nigeria.

Củng cố vai trò “Trụ đỡ nền kinh tế” của nông nghiệp - Ảnh 2.


Không những vậy, như các số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, mặc dù đã có nỗ lực vượt bậc trong việc mở rộng, nhưng diện tích đất nông nghiệp của nước ta trong những năm gần đây cũng chỉ đạt gần 122 nghìn km², chỉ đứng thứ 67 thế giới, nhưng thành tựu nói trên càng cho thấy những nỗ lực vượt bậc của chúng ta trong phát triển khu vực kinh tế này. Bởi lẽ, thứ hạng chênh lệch vô cùng lớn giữa giá trị gia tăng với diện tích đất nông nghiệp đồng nghĩa với việc mỗi diện tích đất nông nghiệp của chúng ta đã sản xuất ra nhiều nông sản hơn nhiều, hay hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của nước ta cao hơn nhiều so với thế giới nói chung. Có thể nói, thành tựu to lớn này được thể hiện rất rõ ràng trên hai phương diện. Đó là, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của thị trường trong nước, đồng thời góp phần ngày càng lớn trong "rổ hàng hoá xuất khẩu" của nước ta ra thị trường thế giới. Các kết quả tính toán từ các số liệu thống kê của nước ta cho thấy, nếu như tiêu dùng lương thực, thực phẩm bình quân đầu người của nước ta năm 2000 chỉ mới đạt 96 USD, còn năm 2020 đã đạt 800 USD, tức là đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 11,18%/năm và ba con số tương ứng trong xuất khẩu hàng nông sản là 51 USD, 435 USD và 11,32%. Rõ ràng, trong điều kiện quỹ đất nông nghiệp chỉ đứng hàng thứ 67 thế giới như nói trên, nhưng ngành Nông nghiệp của nước ta không chỉ đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho gần 100 triệu dân, đứng thứ 17 thế giới hiện nay đã là một thành tựu lớn, cho nên phần đóng góp lên tới hơn 1/3 cho xuất khẩu hằng năm càng cho thấy những đóng góp rất lớn của nông nghiệp trong công cuộc phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung. Không những vậy, như các số liệu thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta cũng đã có những tiến bộ vượt bậc trong xuất khẩu nhóm hàng này. Đó là, trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của nước ta cách nay 20 năm chỉ mới đạt 3,48 tỷ USD và xếp hạng 33 thế giới, còn năm 2019 đã đạt 29,94 tỷ USD, lọt vào Top 20 quốc gia xuất khẩu hàng nông sản nhiều nhất thế giới. Trong điều kiện vẫn có tới hai người làm chỉ để nuôi ba người ăn như hiện nay, xuất khẩu chính là yếu tố bảo đảm để có thể tiếp tục phát triển mạnh hiện tại và trong những năm tới. 

Thách thức trên con đường phát triển 

Cho dù đã đạt được những thành tựu rất lớn như vậy, nhưng nền nông nghiệp nước ta vẫn còn những tồn tại, bất cập không hề nhỏ. Thứ nhất, giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân đầu người dân cư khu vực nông thôn tuy cũng đã có những bước tiến nhất định, nhưng vẫn còn rất thấp và điều này đồng nghĩa với dân cư khu vực nông thôn của nước ta hãy còn rất nghèo và rất chậm được cải thiện. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân đầu người dân khu vực nông thôn của nước ta năm 2019 chỉ mới đạt 598 USD, xếp thứ 135 thế giới. So với các quốc gia trong khu vực thì giá trị gia tăng của chúng ta chỉ cao hơn của Philippines (525 USD) và Campuchia (447 USD), nhưng thấp hơn của Lào (624 USD) và hầu như chỉ bằng một nửa so với 1.195 USD của Indonesia và 1.310 USD của Thái Lan, thậm chí chỉ bằng 1/6 so với 3.540 USD của Malaysia. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Đó trước hết là, trong khi quỹ đất nông nghiệp của chúng ta quá eo hẹp, với gần 122 nghìn km², chỉ đứng thứ 67 thế giới như nói trên, nhưng với dân cư "khủng" tới 61,1 triệu người, đứng thứ 8 thế giới hiện nay (chỉ đứng sau Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Indonesia, Bangladesch, Nigeria và Etiopia, cho nên dù có nỗ lực vượt bậc mở rộng "rổ giá trị gia tăng nông nghiệp" thì "khẩu phần bánh giá trị gia tăng nông nghiệp" của mỗi cư dân nông thôn quá nhỏ chỉ là hệ quả tất yếu.

Rõ ràng, bài toán nghèo đất nông nghiệp của nước ta là thách thức không thể vượt qua trong ngắn hạn, bởi bên cạnh việc quyết liệt giữ "tấc đất, tấc vàng" này, chắc chắn chúng ta sẽ phải chờ đợi hàng thập kỷ để công nghiệp và dịch vụ phát triển mới thu hút dần dân cư khu vực nông thôn tham gia vào các khu vực kinh tế ngày càng quan trọng này, để mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp của dân cư khu vực nông thôn. Thứ hai, giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân đầu người dân cư khu vực nông thôn còn thấp còn do những bất cập trong hệ thống tổ chức sản xuất và định hướng phát triển thị trường. Có thể nói, câu chuyện nổi cộm kéo dài hàng thập kỷ này của nền nông nghiệp nước ta là xây dựng các chuỗi giá trị, ở đó có sự liên kết bền chắc giữa các hộ nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã... thực hành sản xuất theo các quy trình sản xuất tiến bộ với các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu để bảo đảm chất lượng sản phẩm và hình thành các thương hiệu nông sản hướng vào những thị trường nhất định vẫn luôn luôn là vấn đề thời sự chưa bao giờ hết nóng. Rõ ràng, một khi thực trạng này chưa khắc phục được, câu chuyện lúc trồi, khi sụt và giải cứu nông sản sẽ vẫn còn tiếp diễn. Tuy đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, giữ vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế trong những thời đoạn khó khăn, góp phần nâng tầm quốc gia của chúng ta trên trường quốc tế, nhưng nông nghiệp vẫn còn tồn tại những bất cập không hề nhỏ cần phải được khắc phục.

(Bài viết đăng trên Tạp chí Thông tin và Truyền thông số đặc biệt chào năm mới 2022 - Xuân Nhâm Dần)

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
  • Việt Nam - Malaysia nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện
    Phát biểu tại họp báo, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Việt Nam-Malaysia tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực mới (như kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, năng lượng xanh...).
  • Việt Nam đang đối mặt 3 thách thức an toàn thông tin
    Các cuộc tấn công mạng hiện nay ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, đặc biệt khi có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, việc kết hợp công nghệ này với trí tuệ của con người đã giúp phát hiện và phòng, chống tấn công mạng hiệu quả hơn.
  • Chuyển đổi số thành công không thể thiếu “niềm tin số”
    Muốn triển khai hiệu quả chiến lược số hóa quốc gia cần triển khai theo hướng tiếp cận từ trên xuống dưới và phải phù hợp với thực tế, đảm bảo có tầm nhìn rộng trong tương lai.
  • Việt Nam - Hàn Quốc đồng hành trong kỷ nguyên AI
    Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm hy vọng, Việt Nam có thể học tập nhiều hơn từ Hàn Quốc về các bài học kinh nghiệm, cách làm hay để phát huy tối đa vai trò công nghệ số nói chung và trợ lý ảo nói riêng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo lập xã hội số nhân văn và thu hẹp khoảng cách số.
  • Robot Delta hữu dụng trong nhiều ngành
    Nhờ vào thiết kế độc đáo và khả năng hoạt động với tốc độ và độ chính xác cao, robot Delta là một giải pháp tối ưu trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại.
Đừng bỏ lỡ
  • Bốn giải pháp trọng tâm để giải bài toán an toàn dữ liệu quốc gia
    Theo Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương, năm 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong lĩnh vực an toàn thông tin. Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức cần vượt qua để đảm bảo an toàn dữ liệu quốc gia.
  • Việt Nam tăng cường hợp tác phát triển công nghệ số với Burundi và NIPA
    Trong khuôn khổ sự kiện Tuần lễ Số quốc tế 2024, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ Truyền thông, Công nghệ Thông tin và Đa phương tiện Burundi Léocadie Ndacayisaba và ông Hur Sung Wook, Chủ tịch Cục Xúc tiến Công nghiệp CNTT quốc gia Hàn Quốc (NIPA).
  • Chính thức ra mắt Nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin
    Nền tảng hướng tới nâng cao chất lượng và điều phối hiệu quả các hoạt động diễn tập trên toàn quốc thông qua nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin.
  • Cà Mau ứng dụng các phần mềm chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp
    Ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã không ngừng triển khai các giải pháp chuyển đổi số thông qua việc sử dụng các phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ quản lý, điều hành. Trong tương lai không xa, các phần mềm này sẽ hoàn thiện và bắt kịp xu hướng công nghệ để hỗ trợ người nông dân nhiều hơn trong việc tăng gia sản xuất.
  • Bảo vệ các hệ thống mạng trọng yếu là cấp thiết
    Song song với tiến trình chuyển đổi số, các chiến dịch tấn công mạng, gián điệp và khủng bố mạng nhằm vào hệ thống công nghệ thông tin (IT) và công nghệ vận hành (OT) trọng yếu ngày càng gia tăng, việc đảm bảo an ninh mạng trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia.
  • ‏OPPO Find X8 Series sẽ chính thức lên kệ ngày 7/12‏
    Ngày 21/11, OPPO chính thức ra mắt Find X8 Series‏‏ tại Việt Nam và sẽ lên kệ ngày 7/12 tới. Đây là lần đầu tiên người dùng Việt Nam được trải nghiệm dòng flagship cao cấp nhất của OPPO cùng lúc với toàn cầu. ‏
  • Chuyển đổi số từ thực tiễn Báo Hải Dương
    Báo Hải Dương có nhiều thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi số. Đó là Ban Biên tập có quyết tâm cao. Đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên của báo nhanh nhạy với cái mới, ham học hỏi...
  • Đưa siêu ứng dụng "Công dân Thủ đô số - iHanoi" vào cuộc sống
    “Công dân Thủ đô số” - iHaNoi là kênh tương tác trực tuyến trên môi trường số giữa người dân, doanh nghiệp với các cấp chính quyền thành phố Hà Nội. Qua ứng dụng này, người dân và doanh nghiệp có thể phản ánh các vấn đề đời sống, từ đó giúp chính quyền tiếp nhận và giải quyết kịp thời.
  • Sự gia tăng của ứng dụng AI tạo sinh: Những rủi ro tiềm ẩn cho xã hội và con người
    AI tạo sinh là một trong những thành tựu công nghệ mới nhất của con người trong thập niên 20 của thế kỷ XXI. Cho đến nay, sự ứng dụng của AI tạo sinh đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng trong các nghiên cứu xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. AI tạo sinh đã thách thức nhiều khái niệm và định kiến của chúng ta về bản thân mình, đặc biệt là về cách chúng ta hiểu về tư duy và bản chất của tư duy con người.
  • Xây dựng cơ sở dữ liệu để thực hiện chuyển đổi số ngành nông nghiệp Việt Nam
    Cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp là một công cụ quan trọng giúp quản lý và xử lý thông tin liên quan đến sản xuất nông nghiệp.
Củng cố vai trò “Trụ đỡ nền kinh tế” của nông nghiệp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO