DN và người dân là chủ thể quyết định nâng cao năng suất lao động
Từ kinh nghiệm của các nước, có thể thấy rõ năng suất lao động được đo bằng tổng hòa hai yếu tố vĩ mô và vi mô. Trong yếu tố vĩ mô nó phụ thuộc vào quy mô nền kinh tế, thể chế, cơ chế chính sách. Còn yếu tố vi mô là quy mô, nội lực của doanh nghiệp, khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh; chất lượng nguồn nhân lực, kỹ năng của người lao động, khả năng sử dụng nhân lực của doanh nghiệp, của chủ thể sử dụng lao động…
Do đó, Việt Nam đã, đang triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp trong nghiên cứu, đổi mới, chuyển giao và ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất. Xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, kế hoạch nâng cao năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời đẩy mạnh cải cách thể chế; tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đổi mới sáng tạo. Trong đó, giải pháp đầu tiên là cần phải nhanh chóng gia tăng quy mô nền kinh tế (quy mô GDP), duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng cao và ổn định. Cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch nhanh theo hướng tiến bộ, theo đó cơ cấu công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong nền kinh tế phải chiếm tỷ trọng lớn hơn khu vực nông lâm thuỷ sản (gia tăng những ngành/lĩnh vực có giá trị gia tăng cao). Kèm theo đó, cần tạo ra nhiều việc làm và giải quyết việc làm đảm bảo toàn dụng lao động. Huy động tối đa lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế; giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Tiếp đó, đẩy mạnh cải cách thể chế, tiếp tục xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động. Xây dựng Chính phủ số. Phải hình thành cho được hệ sinh thái khởi nghiệp. Tạo môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, thuận lợi, lấy doanh nghiệp, người dân làm trung tâm của sự phát triển. Doanh nghiệp và người dân là chủ thể chính quyết định đến vấn đề nâng cao năng suất lao động. Do đó, một mặt cần tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư, mặt khác cần khuyến khích phát triển, hình thành nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ tạo giá trị gia tăng cao. Có thể tạo bước tạo đột phá chính là các doanh nghiệp tiên phong, đi đầu, chủ động trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo động lực dẫn dắt sự phát triển kinh tế.
Song song với các giải pháp cần kết hợp kinh nghiệm của các nước có năng suất lao động cao như Nhật Bản. Ông Shimizu Akira, Trưởng đại diện Văn phòng Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam, cho biết: JICA đã hỗ trợ Singapore về kinh nghiệm tăng năng suất trong giai đoạn từ 1983-1990 theo yêu cầu của Chính phủ Singapore. Kết quả đến nay năng suất lao động của Singapore đứng hàng đầu khu vực, thậm chí bắt đầu chia sẻ kinh nghiệm với các nước khác. Kinh nghiệm của người Nhật là phải hỗ trợ người lao động "cài đặt" lại nhận thức của mình và đòi hỏi cam kết chặt chẽ từ cả 2 phía thực hiện để cải thiện năng suất lao động.
Vấn đề quan trọng là đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách có hệ thống được quản lý chặt chẽ khoa học từ dạy nghề, đến đại học hoặc cao hơn phù hợp cho mọi đối tượng, lứa tuổi. Hiện Việt Nam cũng đang thực hiện nhiều chương trình dự án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ các nước như Nhật, Australia…
Việt Nam cần nhiều nỗ lực trong việc cải thiện năng suất quốc gia
Nhận xét về năng suất lao động Việt Nam thời gian qua, ông Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và Chiến lược (VESS), đánh giá năng suất tuyệt đối của khu vực chế biến chế tạo - cốt lõi của khu vực công nghiệp lại không tăng theo thời gian mà lại "kẹt" lại trong suốt 20 năm từ năm 2000 đến nay. Không có sự tăng trưởng vượt bậc cùng với đó, tăng trưởng năng suất của khu vực FDI cũng chững lại. Trong khi đó, tăng trưởng năng suất lao động của khu vực tư nhân vẫn đều đặn. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Liên quan đến vấn đề tăng năng suất lao động, tại diễn đàn Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng đây là yếu tố quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi trọng.
Theo Thủ tướng, thời gian qua, năng suất lao động có bước cải thiện đáng kể, tuy nhiên tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam chưa đủ nhanh để thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác trong khu vực.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức và đầu tư cho nhiệm vụ này chưa ngang tầm; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; trình độ công nghệ còn lạc hậu; cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất chưa thực sự hợp lý; chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ còn khó khăn…
Nhìn vào số liệu thông kê, năm 2000 Việt Nam có 65,3% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng đến năm 2020, tỷ trọng hai phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn 37,2%, tăng thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Những năm trước lĩnh vực nông nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nhất, đến nay lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần tương đương nhau (lần lượt là 37,3% và 37,2%) và theo sát là lĩnh vực công nghiệp (25,5%). Con số này cũng phần nào lý giải năng suất lao động của Việt Nam bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%).
Còn năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 tính theo giá so sánh năm 2010 chỉ tăng 5,4% (so với mức tăng 6,2% năm 2019 và ở mức thấp nhất trong 5 năm gần đây), đạt mức 117,94 triệu đồng/lao động theo giá hiện hành (tương đương 5.081 USD/lao động). Mức tăng này cao hơn khi so sánh với các quốc gia trong khu vực. Phân tích thêm yếu tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động... được phản ánh trong "Năng suất nhân tố tổng hợp" (TFP) là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động thì TFP bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%)./.