Tháng 12/2020, trong buổi làm việc của đoàn công tác Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) với Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Phan Ngọc Thọ, Lãnh đạo Bộ TT&TT khẳng định, tuy nguồn lực còn nhiều hạn chế, nhưng Thừa Thiên - Huế đã xây dựng được Chính quyền điện tử (CQĐT) theo lộ trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; là địa phương tiên phong của công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ số. Đây là mô hình các địa phương khác có thể học hỏi, nhân rộng.
Phóng viên Tạp chí TT&TT đã có cuộc trao đổi với Chủ tịch Phan Ngọc Thọ về quá trình, kinh nghiệm xây dựng CQĐT/Chính quyền số, ĐTTM, CĐS... của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Biến phản ánh của người dân thành ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND Tỉnh
Thưa Chủ tịch Phan Ngọc Thọ, trong những năm gần đây, Thừa Thiên - Huế luôn đứng trong nhóm dẫn đầu về triển khai ứng dụng CNTT, phát triển CQĐT. Là người trực tiếp chỉ đạo công tác triển khai ứng dụng CNTT và phát triển CQĐT, ông cảm thấy hài lòng với kết quả nào và ấn tượng với câu chuyện nào nhất khi người dân tham gia sử dụng dịch vụ CQĐT?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Xây dựng CQĐT/Chính quyền số là hướng đến mục tiêu xây dựng và vận hành bộ máy chính quyền được hiệu quả hơn, kết nối người dân doanh nghiệp thuận lợi hơn và tạo ra nhiều giá trị cho người dân, doanh nghiệp (DN) và toàn xã hội.
Trong thời gian qua, có thể đánh giá một trong những kết quả nổi bật đó là việc triển khai hệ thống phản ánh hiện trường của tỉnh. Đó là một công cụ mà dựa trên nền tảng công nghệ, người dân, DN có thể gửi các phản ánh, góp ý những vấn đề tác động đến cuộc sống cá nhân cũng như những vấn đề bức xúc của xã hội. Người dân được giám sát, theo dõi và tương tác cũng như đánh giá mức độ hài lòng kết quả xử lý của cơ quan nhà nước. Từ đó, Thừa Thiên - Huế đã tạo ra một kênh thông tin được người dân tin tưởng và sự tương tác ngày càng tăng với những kết quả đáng khích lệ về tỷ lệ hài lòng, chấp nhận luôn đạt mức trên 80%, tỷ lệ xử lý trễ hạn của cơ quan nhà nước luôn đạt mức dưới 3%.
Ấn tượng lớn nhất đến nay đó là việc người dân tham gia tương tác với chính quyền thông qua phản ánh hiện trường ngày càng nhiều, lĩnh vực phản ánh đa dạng, phong phú, sự việc phản ánh từ quy nhỏ đến lớn qua đó đã phản ánh khá rõ bức tranh đời sống xã hội của tỉnh. Quá trình tiếp nhận và xử lý phản ánh hiện trường đã giúp cho tỉnh nhìn nhận và có những quyết sách có tính chất căn cơ, bền vững và đặc biệt là bám sát được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân về mọi mặt của đời sống xã hội. Điều nổi bật mà tỉnh Thừa Thiên - Huế đã làm được là chính là “Biến phản ánh của người dân thành ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh”.
Thưa ông, trong quá trình chỉ đạo triển khai ứng dụng CNTT và phát triển CQĐT tại Thừa Thiên - Huế, ông đánh giá Thừa Thiên - Huế đã có những thuận lợi và khó khăn gì?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Trong quá trình triển khai ứng dụng CNTT và phát triển CQĐT, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã có cách làm sáng tạo đó là lấy các phương châm làm mục tiêu hành động. Ví dụ như “Từ vận động, khuyến khích đến chế tài bắt buộc hướng đến trở thành nhu cầu”, phương châm này vừa cụ thể hóa cách làm, vừa vạch ra lộ trình triển khai cụ thể, đồng thời xác định phương pháp để đạt đến mục tiêu trong điều kiện thực tiễn của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Các phương châm vừa ngắn gọn, vừa rõ ràng và trở thành phổ biến từ đó tác động mạnh vào nhận thức và đã tạo ra sự đồng thuận lớn trong các cấp, các ngành trong quá trình triển khai ứng dụng CNTT cũng như xây dựng CQĐT tỉnh Thừa Thiên - Huế, đó là nền tảng thuận lợi tiên quyết.
Bên cạnh đó, lợi thế của Thừa Thiên - Huế trong thời gian xây dựng CQĐT và ĐTTM là có một mô hình quản trị tốt, chuẩn hóa các hoạt động dịch vụ. Sau nhiều năm xây dựng, đúc kết, mô hình “Hạ tầng dùng chung và cơ sở dữ liệu (CSDL) tập trung” ở tỉnh Thừa Thiên - Huế được đánh giá là mô hình phù hợp hiện nay. Từ đó, mô hình này trở thành quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình đầu tư và phát triển ứng dụng CNTT của tỉnh. Qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các giải pháp dùng chung, CSDL dùng chung cũng như tiết kiệm được tài lực và vật lực, sớm phát huy tính hiệu quả.
Còn những khó khăn mà tỉnh gặp phải trong quá trình triển khai thực hiện, đó là việc còn thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng CQĐT; việc xây dựng các CSDL quốc gia, hạ tầng CNTT nền tảng phục vụ phát triển CQĐT còn chậm, chưa kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; cơ chế đầu tư, thuê dịch vụ CNTT vẫn còn vướng mắc...
Bên cạnh đó, Thừa Thiên - Huế là một tỉnh có quy mô kinh tế nhỏ, kinh phí đầu tư cho ứng dụng CNTT hằng năm không nhiều. Tuy nhiên, tỉnh đã đi tắt đón đầu trong chọn giải pháp, mô hình, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, có điều kiện trong triển khai ứng dụng CNTT khi điều kiện chưa có những giải pháp chung của quốc gia, điều kiện tài chính của tỉnh còn khó khăn.
Với sự quyết tâm của hệ thống chính trị, các cấp các ngành, sự quyết liệt chỉ đạo của Lãnh đạo tỉnh bằng những mục tiêu cụ thể có kiểm tra giám sát, đánh giá, có động viên khuyến khích, phát huy vai trò của người đứng đầu, đặc biệt là tạo ra được sự kiên trì, bền bỉ trong quá trình xây dựng. Đến nay tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã vượt qua những khó khăn cơ bản và tạo ra được động lực cho việc phát triển trong thời gian tới.
Thưa ông, câu chuyện kinh phí cho CNTT giống như con gà quả trứng. Nhiều tỉnh muốn làm nhưng lại kẹt về kinh phí, không có kinh phí thì lại khó ứng dụng CNTT được. Vậy Thừa Thiên - Huế đã giải quyết vấn đề này như thế nào?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Cái gì cũng có 2 mặt, nhưng điều cơ bản là sự quyết tâm, quyết liệt và cơ chế chỉ đạo điều hành trong quá trình triển khai. Nếu tiền ít thì tỉnh bắt buộc phải có sự nghiên cứu chu đáo, lựa chọn cách thức và phương pháp thực hiện phù hợp, cân đo đong đếm trong việc cái gì nên làm trước, cái gì nên làm sau. Do đó, kinh phí đầu tư hạn hẹp vừa là khó khăn nhưng cũng vừa tạo ra cho các cơ quan tham mưu điều kiện để nâng cao trách nhiệm, nâng cao khả năng phân tích đánh giá để tham mưu những cách làm phù hợp.
Ngược lại, tiền nhiều không có nghĩa là sẽ hiệu quả vì bản chất của ứng dụng CNTT là tính kế thừa, liên kết, là quy trình, là con người. Việc phân tích việc gì làm trước để việc làm sau đó có tính kế thừa phát triển mới là cái quan trọng.
Đây cũng là một trong những cách làm để tỉnh Thừa Thiên - Huế vượt qua những rào cản về đầu tư kinh phí. Chúng tôi không chấp nhận một sản phẩm ứng dụng CNTT ra đời mà không đóng góp được gì cho phát triển, mà chỉ là hình thức.
Thưa ông, được biết Thừa Thiên - Huế đã chọn CNTT là bước đột phá. Tỉnh đang thúc đẩy phát triển CNTT một cách mạnh mẽ, đưa CNTT trở thành ngành kinh tế quan trọng của địa phương. Ông có thể chia sẻ lý do của việc lựa chọn này?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Xu thế ứng dụng CNTT là xu thế tất yếu, đã được khẳng định, cụ thể là Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 đã và đang tác động lớn đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sau hơn 15 năm kiên trì, bền bỉ triển khai các hoạt động ứng dụng CNTT, xây dựng CQĐT, tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có những đánh giá, kiểm nghiệm về mặt thực tiễn. Những giá trị về việc nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính trong cơ quan nhà nước (CQNN) đã được khẳng định. Đồng thời, những lợi ích đem lại cho DN, người dân cũng đã được kiểm chứng qua thực tiễn, tạo ra mô hình không có khoảng cách địa giới hành chính trong việc thông tin và và lưu thông hàng hóa dịch vụ cũng đã dần trở thành phổ biến hiện nay.
Với những kiểm chứng của thực tiễn, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã đủ điều kiện để xác lập vai trò của ứng dụng CNTT, từ đó đã được tổng hợp, đưa vào Nghị quyết về vai trò, và định hướng trong thời gian tới đối với lĩnh vực CNTT.
Thưa ông, Thừa Thiên - Huế là một trong những địa phương đầu tiên xây dựng kiến trúc CQĐT sau khi khung Chính phủ điện tử (CPĐT) của Việt Nam được ban hành. Thừa Thiên - Huế cũng liên tục trong nhóm dẫn đầu về ứng dụng CNTT và CQĐT. Với vai trò là tỉnh tiên phong và liên tục đứng đầu, Thừa Thiên - Huế có phải chịu nhiều áp lực để giữ vững vị trí của mình hay không?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Chúng tôi khẳng định, những kết quả đạt được thời gian qua trong xây dựng CQĐT là những kết quả bước đầu nhưng rất quan trọng trong định hướng phát triển CQĐT, xây dựng chính quyền số trong thời gian tới. Vị trí đứng đầu của Thừa Thiên - Huế là kết quả của quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ của toàn tỉnh và phải rất khó khăn mới có thể có được. Tuy nhiên, giữ vững vị trí lại là một việc càng khó khăn hơn, nhất là trong điều kiện sự nhận thức và mức độ quan tâm đầu tư các tỉnh, thành phố khác ngày càng lớn. Đó chính là một áp lực vô cùng lớn của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đây không phải là thành tích đơn thuần mà chính là sự khẳng định về phương pháp cần làm trong thời gian tới. Để giữ vững được những chỉ số này đòi hỏi tỉnh Thừa Thiên - Huế phải luôn luôn đổi mới trong tư duy. Trước tiên là tư duy nhận thức của con người được đặt lên hàng đầu, yêu cầu nhận thức đó phải đồng đều và sâu rộng đến các cấp. Vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu, đánh giá phân tích xu thế phát triển để có những thay đổi kịp thời, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia trong quá trình xây dựng và phát triển. Đặc biệt là giải pháp huy động sự tham gia đồng thời của các bên từ nhà nước, DN, người dân và nhà khoa học, đây sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo kết quả trong thời gian tới.
Không chạy theo một cách rập khuôn khi áp dụng xu thế công nghệ
Thưa ông, song song với việc triển khai hiệu quả CQĐT, từ năm 2018, Thừa Thiên - Huế đã bắt đầu xây dựng ĐTTM tại Thành phố Huế (HueIOC). Xin ông cho biết thêm về kết quả, hiệu quả công tác triển khai Đô thị thông minh của Thừa Thiên - Huế đến nay?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6/2018, đến nay, Trung tâm giám sát điều hành ĐTTM (HueIOC) đã đưa vào vận hành gần 20 dịch vụ ĐTTM như: phản ánh hiện trường, giám sát đô thị thông qua cảm biến camera, giám sát thông tin báo chí, giám sát dịch vụ hành chính công, cảnh báo mạng lưới ĐTTM, giám sát quảng cáo điện tử, giám sát môi trường, thẻ điện tử, giám sát tàu cá, giám sát đảm bảo an toàn thông tin và các dịch vụ tiện ích khác.
Các dịch vụ ĐTTM đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu thông tin, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cũng như hình thành thói quen sử dịch vụ, ứng dụng trên nền tảng số trong cộng đồng xã hội; Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), đảm bảo vận hành hiệu quả các dịch vụ đô ĐTTM; Vận hành Hệ thống thông tin tổng hợp, phân tích các chỉ tiêu kinh tế xã hội, hỗ trợ nghiệp vụ liên quan cho các ngành; Ứng dụng giải pháp công nghệ GIS mới để sớm chuyển đổi bản đồ nền, cũng như xây dựng, cập nhật dữ liệu đảm bảo hình thành các dịch vụ GIS phục vụ các ứng dụng ĐTTM.
Hiệu quả của dịch vụ ĐTTM trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế bao gồm, đầu tiên là việc người dân được tiếp cận thông tin một cách tập trung, chính xác và số lượng người sử dụng ngày càng nhiều, đến nay đã hơn 400.000 người dân đăng ký tài khoản Hue-S và các dịch vụ ĐTTM của tỉnh. Vai trò của người dân được nâng cao trong việc phản ánh, góp ý những vấn đề trong xã hội, để rồi họ được bảo vệ và mạnh dạn hơn trong việc gửi ý kiến của mình theo cơ chế bảo mật.
Dịch vụ ĐTTM cũng giúp giảm bớt khâu xử lý trung gian, phương thức giám sát hiện đại. Việc xử lý trên dữ liệu số, quy trình số đã giảm đến hơn 65% thời gian xử lý so với trước đây. Kết quả công khai được người dân giám sát từ đó trách nhiệm xử lý được nâng cao trong cơ quan nhà nước. Tỷ lệ hài lòng và chấp nhận của người dân luôn đạt mức trên 80%, tỷ lệ xử lý trễ hạn luôn nhỏ hơn 3%.
Từ đó, hình thành được mô hình vận hành khắc phục được những hạn chế trong quy trình qua nhiều cấp hành chính theo mô hình cũ, những vẫn đảm bảo công tác giám sát, chỉ đạo thống nhất.
Cuối cùng có thể thấy, dịch vụ ĐTTM trong thời gian qua đã góp phần rất lớn trong việc phòng chống dịch bệnh COVID–19 cũng như công tác phòng chống thiên tai, bão lụt trong điều kiện thực tế của địa phương.
Đặc biệt, với mục tiêu tích hợp thành một kênh thông tin duy nhất để kết nối giữa nhà nước, DN với người dân, Hue-S được xây dựng trên nguyên tắc: nhà nước kết nối thống nhất, cung cấp thông tin thống nhất, tạo ra nền tảng để các DN tích hợp cung cấp dịch vụ thống nhất hướng đến người dân truy cập vào một ứng dụng duy nhất để đáp ứng nhu cầu thông tin và sử dụng các dịch vụ thiết yếu phục vụ đời sống. Hướng đến thực hiện thành công phương châm “4 không 1 có” bao gồm: Làm việc không giấy tờ, hội họp không tập trung nhiều, dịch vụ công không gặp mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và dữ liệu có số hoá.
Hiện nay các dịch vụ ĐTTM của tỉnh Thừa Thiên - Huế đã và đang góp phần nâng cao chất lượng, đổi mới phương thức hoạt động quản lý nhà nước, gia tăng mức độ hài lòng của người dân, DN đối với hoạt động của chính quyền các cấp. Hue-S đã dần trở thành ứng dụng xã hội cung cấp các dịch vụ thiết yếu phục vụ đời sống của người dân.
Ông có thể cho biết thêm về mối quan hệ, hiệu quả tương hỗ giữa triển khai ĐTTM và phát triển CQĐT tại Thừa Thiên - Huế? Từ đó, ông có thể chia sẻ kinh nghiệm trong triển khai đồng thời ĐTTM và CQĐT của Thừa Thiên - Huế?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: CQĐT là việc tin học hóa trong CQNN hóa, quy trình hóa, tin học hóa dựa trên nền tảng hành chính hiện tại từ đó giúp cho CQNN hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Ngoài ra, CQĐT cũng cung cấp dịch vụ công (DVC) kết nối người dân DN tạo điều kiện thuận lợi trong việc đáp ứng các nhu cầu đời sống và sản xuất kinh doanh của DN.
ĐTTM là việc dựa trên nền tảng công nghệ số để nâng cao việc phân tích dự đoán phục vụ những giá trị cao hơn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của CQNN. Đặc biệt, ĐTTM chính là việc cung cấp dịch vụ kết nối cho người dân không chỉ dừng lại ở DVC mà toàn bộ các dịch vụ trong đời sống xã hội.
Như vậy, khi triển khai dịch vụ ĐTTM chính là việc DN và người dân sử dụng công nghệ một cách phổ biến và rộng rãi hơn với sự đa dạng phong phú của tất cả các loại hình dịch vụ trong đời sống xã hội. Điều này tác động ngược trở lại việc xây dựng và hoàn thiện CQĐT.
Từ đó, việc xây dựng CQĐT cần thay đổi theo như: số hóa, áp dụng công nghệ số trong cải tiến quy trình, phương thức tổ chức số để kịp thời đáp ứng các nhu cầu dịch vụ trên nền tảng số. CQĐT cũng phải nhanh thay đổi để hỗ trợ DN đặc biệt là sự chia sẻ dữ liệu, các nền tảng tạo ra môi trường thuận lợi cho DN tham gia vào cung cấp sản phẩm, dịch vụ trên môi trường số với tư cách là nhà nước kiến tạo. Mối quan hệ này đòi hỏi các bên phải cùng tham gia và cũng thay đổi để đáp ứng với xu thế mới, xu thế số.
Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên - Huế trong quá trình triển khai dịch vụ ĐTTM là không chạy theo một cách rập khuôn để áp dụng các xu thế công nghệ một cách đại trà. Thừa Thiên - Huế có những kết quả bước đầu trong dịch vụ ĐTTM chính là thực hiện một cách nghiêm túc quy tắc “Lấy người dân làm trung tâm; DN làm động lực; Nhà nước kiến tạo”, từ đó phân tích, đánh giá và khảo sát xã hội để lựa chọn theo thứ tự ưu tiên những vấn đề mà người dân xã hội quan tâm từ đó xây dựng các dịch vụ trên kết quả đó.
Đồng thời, những dịch vụ ĐTTM đã được xác định sau khi triển khai những giải pháp khoa học để lựa chọn thì huy động thêm thành phần DN tham gia cùng nhà nước để cung cấp các dịch vụ đã xác định. Kết quả đó tạo ra một cơ sở để phân tích tiếp và lựa chọn các giải pháp áp dụng trước mắt cũng như sẽ mở rộng khi người dân đã trải nghiệm và hình thành nhu cầu mới trên cơ sở tính phổ biến ngày càng lớn của công nghệ.
CĐS phải lấy người dân làm trung tâm, DN làm động lực, nhà nước kiến tạo
Thưa ông, tiếp tục phát huy thành quả của CQĐT và nắm bắt thế mạnh của các công nghệ mới, CĐS (phát triển Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số) là xu hướng tất yếu, quan điểm của ông như thế nào về việc ứng dụng CNTT, CĐS ở các địa phương, nhất là mới đây Thừa Thiên - Huế là tỉnh đầu tiên tổ chức không chỉ ngày CĐS mà cả một tuần CĐS?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Quan điểm đẩy mạnh CĐS là “Lấy Người dân làm trung tâm; DN làm động lực; Nhà nước kiến tạo”. Vì vậy, thành công của quá trình CĐS thì không chỉ bao gồm Nhà nước mà cần có sự chung tay mạnh mẽ của người dân và DN, trong đó nhà nước chỉ đóng vai trò “kiến tạo”.
Theo quan điểm đó, mục đích chính của việc đẩy mạnh CĐS của tỉnh là chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao: Ứng dụng các công nghệ ICT để hỗ trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề được người dân quan tâm, nâng cao sự hài lòng của người dân. Mục tiêu CĐS của tỉnh trong thời gian tới là hướng đến thực hiện thành công phương châm “4 không 1 có” bao gồm: Làm việc không giấy tờ, hội họp không tập trung nhiều, dịch vụ công không gặp mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và luôn luôn có câu hỏi thông tin, dữ liệu được tiếp cận đã được số hoá chưa.
Tuần lễ CĐS chính là sự khẳng định quyết tâm của Lãnh đạo tỉnh cho công cuộc CĐS trong thời gian tới. Một trong những chương trình hành động quan trọng của nhiệm kỳ này được đưa vào Nghị quyết Đảng bộ tỉnh đó là lấy CNTT làm đột phá để tác động một cách sâu rộng trong công cuộc cải cách hành chính (CCHC), phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Từ đó, ông có suy nghĩ gì về hành trình CĐS của Thừa Thiên - Huế, khi mà tại các buổi làm việc với tỉnh, Lãnh đạo Bộ TT&TT đã luôn đưa ra mong muốn Thừa Thiên - Huế phải trở thành điểm đến của những sự kiện công nghệ lớn của quốc gia và thế giới, hướng tới mục tiêu kép: vừa phát triển du lịch, vừa phát triển công nghệ và trở thành mô hình mẫu thực hiện CĐS?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Trong những năm phát triển CQĐT vừa qua, trong giai đoạn đầu triển khai mô hình dịch vụ ĐTTM, đặc biệt tại Tuần lễ CĐS vừa rồi, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã thể hiện như là một điểm đến của những sự kiện công nghệ lớn của quốc gia, đã luôn tạo được sự quan tâm, sự kết nối, phối hợp thực tế với nhiều tập đoàn lớn trong và ngoài nước thông qua các chiến lược hợp tác dài hạn và kế hoạch triển khai hành động cụ thể cho từng giai đoạn. Từ đó tỉnh đã đạt được những bước tiến về phát triển và ứng dụng hiệu quả hơn về CQĐT và ĐTTM.
Nhìn lại quá trình xây dựng CQĐT, Thừa Thiên - Huế nhận thấy cũng đã đồng thời khởi động và triển khai song hành các hoạt động CĐS từ rất sớm, đã cơ bản có được những kết quả ban đầu liên quan Chính quyền số, xã hội số và nền móng để phát triển mạnh mẽ kinh tế số. Thừa Thiên - Huế sẽ tiếp tục hành trình đó, bám sát các phương châm, mục tiêu và giải pháp đã đề ra. Đó là những cách thức căn cơ giúp tỉnh triển khai hiệu quả việc xây dựng CQĐT và ĐTTM xuyên suốt, đồng bộ trong suốt các năm vừa qua.
Trong đó một điểm rất quan trọng là việc nhận thức vai trò, vận dụng và hợp tác ứng dụng phù hợp các năng lực công nghệ số đến từ việc tham gia, phối hợp của các tập đoàn, đơn vị phát triển, ứng dụng CNTT.
Trong hành trình CĐS của tỉnh, như mong muốn của Lãnh đạo Bộ TT&TT, không chỉ dừng lại ở mục tiêu phát triển du lịch, mà bao gồm cả những lĩnh vực khác của công cuộc CĐS, sẽ phải luôn đòi hỏi sự quyết liệt của các cấp, cùng ý thức, trách nhiệm cũng như sự cố gắng, nỗ lực từ phía DN, tổ chức và chính quyền các địa phương. CĐS không chỉ về mặt công nghệ, mà còn là chuyển đổi cả cách quản lý, phương thức tiếp cận, xúc tiến, quảng bá,...
Điều này đòi hỏi sự đổi mới trong cả tư duy lẫn hành động của hệ thống chính trị, từ cơ quan quản lý đến các DN, người dân, có như vậy hành trình đó mới đảm bảo được mục tiêu kép về việc phát triển kinh tế, vừa phát triển công nghệ để từ đó hình thành một mô hình mẫu tham khảo thực hiện CĐS cho các tỉnh, thành có đặc điểm và điều kiện tương tự.
Các giải pháp công nghệ đóng góp rất lớn trong việc phòng chống dịch COVID-19
Thưa ông, quay trở lại với việc phát triển CQĐT hướng tới Chính quyền số, theo số liệu thống kê trên Cổng DVC của Thừa Thiên - Huế, hiện nay tỉnh đã cung cấp 100% TTHC ở DVC trực tuyến (DVCTT) mức độ 3, 4. Tuy nhiên, trong thời gian 1 năm gần đây, số lượng hồ sơ nộp và giải quyết trực tuyến qua DVCTT mức độ 3, 4 mới chỉ đạt khoảng gần 20%. Ông đánh giá như thế nào với con số trên?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Với mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng CNTT, hướng tới xây dựng CQĐT nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của CQNN và thực hiện CCHC, trong thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã đẩy mạnh cung cấp DVCTT, tăng cường mức độ, phạm vi cung cấp DVCTT của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, tỷ lệ DVCTT có phát sinh hồ sơ còn thấp, con số thể hiện ở trên cho thấy: nhiều người dân và DN chưa thực sự quan tâm nhiều đến các DVCTT của các CQNN. Chưa kể đến, thói quen dùng giấy tờ, trình độ và điều kiện sử dụng thiết bị CNTT của người dân đặc biệt là khu vực nông thôn còn rất nhiều hạn chế và thiếu đã gây khó khăn trong việc tiếp cận các DVCTT. Cuối cùng là đến từ tâm lý của người dân lo ngại về sựmất an toàn thông tin khi sử dụng DVC, hoặc sự chưa rõ ràng về việc chứng thực cho các hồ sơ pháp lý trên mạng.
Do đó, để tăng tỷ lệ sử dụng DVCTT những nhiệm vụ trọng tâm tỉnh cần thực hiện tiếp là:
- Tăng cường truyền thông và quảng bá hiệu quả về DVCTT của cơ quan để người dân, DN hiểu rõ hơn về lợi ích mang lại từ việc sử dụng dịch vụ.
- Áp dụng triệt để thực hiện DVCTT đối với DN.
- Thực hiện các giải pháp nhằm mục tiêu giảm giấy tờ, giảm thời gian, giảm hồ sơ khi tham gia DVCTT để khuyến khích người dân, doanh nghiệp tham gia khi giải quyết thủ tục hành chính.
- Cung cấp đa đạng các kênh giao tiếp, giúp người dân, DN lựa chọn hình thức xử lý dịch vụ công phù hợp nhất.
- Hỗ trợ đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ sử dụng máy tính, Internet cho người dân; hỗ trợ máy tính; cung cấp các điểm truy cập Internet công cộng, hệ thống mạng Wi-Fi miễn phí tại các khu vực đông dân cư đế người dân tiếp cận dịch vụ.
- Hợp tác với các DN như Bưu điện, ngân hàng để hỗ trợ triển khai DVCTT như chuyển trả kết quả qua Bưu điện, thanh toán phí, lệ phí trực tuyến...
- Nâng cao năng lực Trung tâm phục phục vụ hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện và bộ phận một cửa cấp xã.
Thưa ông, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã có những giải pháp gì trong việc tuyên truyền CQĐT tới người dân trong thời gian qua và sẽ tiếp tục như thế nào trong thời gian tới để thu hút người dân tham gia sử dụng DVCTT hay CQĐT cũng như các dịch vụ ĐTTM nhiều hơn nữa, đặc biệt là trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 đang có nhiều diễn biến khó lường như hiện nay?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Không có giải pháp nào bằng giải pháp phải hành động với tinh thần quyết liệt, đồng bộ và kiên trì. Người dân, DN cảm nhận được lợi ích thiết thực đối với mình khi tham gia các DVCTT. Chính phủ, Bộ TT&TT đang hoàn thiện dần khung pháp lý cho CĐS; các DN công nghệ của Việt Nam ngày càng làm chủ và có những sản phẩm tốt do chính người Việt Nam làm, nhận thức của hệ thống chính trị đã được nâng cao về vai trò CĐS trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, việc áp dụng, kế thừa những kết quả của giai đoạn trước, đưa ra những giải pháp và vận dụng phù hợp vào điều kiện thực tiễn của địa phương là yêu cầu tất yếu cho giai đoạn tới.
Trong phòng chống dịch bệnh COVID-19, tôi vui mừng khi thấy rằng chính những giải pháp công nghệ đã đóng góp rất lớn cho công cuộc phòng chống dịch bệnh tại tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự tác động hiệu quả của công nghệ bằng giai đoạn phòng chống dịch bệnh, chưa bao giờ có thể nghĩ việc áp dụng công nghệ trong hoạt động của các CQNN lại nhanh đến vậy và cũng chưa bao giờ cảm nhận được sự vận động tự chuyển mình để thích ứng trong sử dụng công nghệ để tiếp cận thông tin, kỹ năng chống dịch trong dân và toàn xã hội lại mạnh mẽ đến vậy.
Trong quá trình phát triển CQĐT, ĐTTM tại Thừa Thiên - Huế, ông thấy còn những bất cập nào từ phía các quy định hay chủ trương chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương làm hạn chế việc triển khai, đẩy nhanh việc CĐS, phát triển Chính quyền số tại tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng và trên cả nước nói chung? Từ đó ông có đề xuất, kiến nghị gì với Chính phủ hay các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Trong những năm gần đây, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chủ trương chính sách liên quan đến xây dựng CQĐT và ĐTTM ngày càng được hoàn thiện; đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các địa phương đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng CQĐT, góp phần đẩy mạnh CCHC, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, công khai, minh bạch, rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, xử lý công việc, tiết kiệm thời gian và chi phí, mang lại hiệu quả thiết thực cho các CQNN, người dân, DN. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện còn nhiều bất cập trong xây dựng CQĐT và ĐTTM, cụ thể như:
- Các văn bản quy định cụ thể về mô hình, các tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng CQĐT và ĐTTM chưa được ban hành kịp thời làm ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện tại các địa phương.
- Chậm triển khai các mô hình điểm đã được một số địa phương thực hiện có hiệu quả thời gian vừa qua để các địa phương khác học tập kinh nghiệm dẫn đến lãng phí nguồn lực.
- Công tác giám sát ứng dụng hệ thống chưa đồng bộ nên việc liên thông các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin.
- Vẫn còn những rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng CNTT gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong triển khai các dự án CNTT...
Có thể khẳng định rằng, việc triển khai ứng dụng CNTT và xây dựng CQĐT đang đi đúng hướng và phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển; nếu chúng ta sớm khắc phục những hạn chế nói trên thì tin tưởng rằng chúng ta sẽ sớm thành công trong xây dựng CQĐT hướng đến Chính quyền số, ĐTTM.
Thưa ông, gần đây, lãnh đạo Thừa Thiên - Huế đã nói rất nhiều đến “Giấc mơ Huế”, về một Huế hạnh phúc, ông có thể cho biết cụ thể hơn về nội hàm “Giấc mơ Huế”, lộ trình kế hoạch biến “Giấc mơ Huế” thành hiện thực?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Nói về “Giấc mơ Huế” trước tiên tôi muốn khẳng định quan điểm rằng: Chính những người dân Huế mới là những người làm chủ “Giấc mơ Huế”.
Mục tiêu mà “Giấc mơ Huế” hướng tới không có gì cao sang hay là xa xôi mà “Giấc mơ Huế” là xây dựng một xứ sở hạnh phúc, người dân có cuộc sống sung túc hơn, xã hội yên bình hơn và chính quyền thân thiện hơn.
Tôi quan niệm xây dựng “Giấc mơ Huế” chính là tạo một môi trường đầu tư thuận lợi để phát triển kinh tế; tạo môi trường làm việc sáng tạo để các trí thức và những người tâm huyết với Huế có điều kiện và khả năng cống hiến tốt nhất, sớm đưa Huế phát triển xứng đáng với vị thế và vai trò vốn có.
Thừa Thiên - Huế cần phát triển hài hòa, phát triển nhanh trên nền tảng tri thức, phát triển bền vững trên nền tảng văn hoá. Muốn vậy, Thừa Thiên - Huế phải đặc trưng, đặc sắc và khác biệt. Việc thu hút đầu tư không chỉ bằng cơ sở hạ tầng mà còn bằng môi trường sống thanh bình, cảnh quan thiên nhiên thân thiện, bằng các giá trị văn hoá, nhân văn.
Do đó, song song với việc đầu tư, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng, cần thêm nhiều ý tưởng và nhanh chóng tạo lập môi trường sống và đầu tư thuận lợi thông qua việc khai thác mạnh mẽ các yếu tố di sản, yếu tố văn hoá để thu hút nhà đầu tư có mong muốn đầu tư lâu dài cho Thừa Thiên - Huế.
Để hiện thực hóa “Giấc mơ Huế”, xây dựng Thừa Thiên - Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản Cố đô và bản sắc văn hóa Huế với đặc trưng di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường và thông minh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đang tập trung triển khai, thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, việc mở đường cho thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đang là vấn đề hết sức cấp thiết. Điều quan trọng nhất đó là phát huy sức mạnh của sự đồng thuận, đồng lòng của người dân trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, để cùng chung tay xây dựng tỉnh nhà phát triển.
Hiện thực hóa “Giấc mơ Huế” không chỉ chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà là trách nhiệm của tất cả người con xứ Huế. Tôi tin tưởng rằng với trí tuệ, cốt cách và khát vọng của con người Huế, Giấc mơ Huế sẽ sớm trở thành hiện thực.
Được biết, sắp tới ông sẽ không tham gia HĐND tinh Thừa Thiên - Huế khóa mới (nhiệm kỳ 2021- 2026), ông có thể chia sẻ những vấn đề ông còn trăn trở muốn làm tiếp cho Thừa Thiên - Huế nói chung và cho công cuộc CĐS, phát triển Chính quyền số của Tỉnh nói riêng?
Chủ tịch Phan Ngọc Thọ: Điều tôi còn trăn trở đó là người dân Huế còn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao hơn trung bình cả nước, chất lượng cuộc sống của người dân vẫn chưa cao. Là người gây dựng, ươm mầm “Giấc mơ Huế” với mục tiêu hướng tới là xây dựng một xứ sở hạnh phúc, người dân có cuộc sống sung túc hơn, xã hội yên bình hơn và chính quyền thân thiện hơn, với cá nhân tôi, tôi vẫn tiếp tục hành trình xây dựng “Giấc mơ Huế” với tư cách một người dân, một trong những lãnh đạo của tỉnh.
Tôi tin tưởng rằng với sự chung tay, góp góp sức, vào cuộc của các cấp chính quyền và người dân giấc mơ đó không còn xa vời mà sẽ thực hiện được ngay trong nhiệm kỳ 2021-2026.
Đối với công cuộc CĐS, phát triển Chính quyền số của tỉnh, CĐS là xu thế, là tất yếu trong thời đại ngày nay. Thời gian qua, mô hình CQĐT của tỉnh Thừa Thiên - Huế cho thấy hiệu quả cao trong quản lý, điều hành và phục vụ tốt cho người dân, DN.
Thời gian tới, tỉnh cần tranh thủ ngay những kết quả đã đạt được trong quá trình xây dựng CQĐT, hoàn thiện và bổ sung theo tiêu chí mới để xây dựng Chính quyền số tạo nền tảng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế số và hướng tới xã hội số. Tăng cường kết nối giữa các ứng dụng phục vụ người dân và DN nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và chất lượng phục vụ người dân, DN với phương châm lấy người dân là trung tâm phục vụ, lấy sản phẩm đánh giá năng lực điều hành, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo hiệu quả.
Trân trọng cảm ơn ông!
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 5 tháng 5/2021)