Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022

Minh Trang| 16/12/2021 09:54
Theo dõi ICTVietnam trên

Nhận định về bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia đã dành riêng cho Tạp chí Thông tin và Truyền thông cuộc trả lời phỏng vấn.

Đã từng có những đánh giá rất sát với tình hình kinh tế Việt Nam trước những ảnh hưởng, tác động của đại dịch COVID-19, vậy, chuyên gia có thể khái quát về kinh tế Việt Nam cập nhật đến hết tháng 11 và ước đạt cả năm 2021?

TS. Cấn Văn Lực: Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2021 ghi nhận một số điểm sáng trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát trở lại, đặc biệt, lần bùng phát thứ 4 từ ngày 27/4 đến nay nghiêm trọng và phức tạp hơn rất nhiều, ảnh hưởng nặng nề tới tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã có những chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 (Nghị quyết 128) tạo điều kiện khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội. Sản xuất công nghiệp đang phục hồi; xuất, nhập khẩu duy trì đà tăng trưởng tích cực; lạm phát vẫn được kiểm soát ở mức thấp; thu hút FDI tiếp tục đà phục hồi; tỷ giá cơ bản ổn định và lãi suất giảm nhẹ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp; quá trình chuyển đổi số ở các cấp độ được thúc đẩy. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như dịch bệnh trên thế giới và trong nước vẫn diễn biến phức tạp; hoạt động bán lẻ phục hồi chậm trong điều kiện bình thường mới do sức cầu còn yếu; thu chi ngân sách vẫn còn nhiều thách thức; giải ngân đầu tư công vẫn chậm dù nhiều địa phương đã nới lỏng giãn cách; hoạt động doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn; và rủi ro nợ xấu tăng cao. Theo đó, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2021 khoảng 2-2,5% - dù thấp hơn kế hoạch đề ra, song đây vẫn là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp. Đây cũng là mức tương đương với dự báo của WB (10/2021), song thấp hơn dự báo của IMF (10/2021) và ADB (9/2021) là khoảng 3,8%. Lạm phát bình quân năm 2021 dự báo ở mức thấp, khoảng 2-2,1%, chủ yếu do sức cầu còn yếu, vòng quay tiền còn chậm và doanh nghiệp, bên bán hàng chưa thể tăng giá bán tương đương mức tăng giá đầu vào nhằm kích cầu, khuyến mại, nhất là dịp cuối năm.

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 - Ảnh 1.

Bức tranh Kinh tế Việt Nam năm 2021 đã có một số điểm sáng.

Chuyên gia có thể phân tích rõ hơn về những điểm sáng, bước đầu khôi phục sản xuất nhiều lĩnh vực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội những tháng cuối năm 2021 gắn với sự điều hành của Chính phủ?

TS. Cấn Văn Lực: Vượt lên trên các khó khăn, kinh tế Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, đặc biệt tại 8 điểm sáng sau đây: Thứ nhất, dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng cơ bản vẫn trong tầm kiểm soát; tiến trình tiêm vắc xin được đẩy mạnh; trong đó, Chính phủ, Thủ tướng, Ban chỉ đạo Quốc gia đã có nhiều chỉ thị, chỉ đạo, giải pháp quyết liệt, điều chỉnh phù hợp hơn. Đặc biệt, Chính phủ cũng đã có các gói hỗ trợ an sinh xã hội, tài khóa (giãn hoãn thuế, tiền thuê đất; miễn, giảm phí…) và tiền tệ - tín dụng (giãn hoãn nợ, cơ cấu lại nợ; giảm lãi, phí) cho người dân và doanh nghiệp; nhiều địa phương cũng đã triển khai hỗ trợ trực tiếp người dân, gồm cả lao động tự do. Từ tháng 10, Chính phủ đã dần điều chỉnh sang chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 được triển khai tạo điều kiện khôi phục các hoạt động kinh tế. Sau 2 tháng triển khai thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ, cùng với việc đẩy nhanh tiến trình huy động và tiêm vắc xin các hoạt động sản xuất, kinh doanh, di chuyển của người dân, người lao động đang dần trở lại trạng thái bình thường mới từ đó giúp tình hình kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang gấp rút hoàn thành Chiến lược phòng chống dịch và Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế xã hội 2 năm tới để triển khai từ đầu năm 2022. Hai là, các hoạt động Sản xuất kinh doanh (SXKD) đang phục hồi; xuất, nhập khẩu duy trì đà tăng tích cực. Tính chung 11 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 20%; trong đó xuất khẩu ước tăng 17,5%; nhập khẩu tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu 225 triệu USD. Kết quả tích cực này phản ánh sự nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành, doanh nghiệp phục hồi sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu; được duy trì nhờ sự phục hồi của các đối tác thương mại chính, nhất là Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU; cũng như việc chúng ta đang tận dụng tốt hơn các cơ hội từ các Hiệp định Thương mại tự do đã ký kết, chuỗi cung ứng đã phần nào phục hồi trong trạng thái bình thường mới. Ba là, sản xuất công nghiệp phục hồi rõ nét. Chỉ số Sản xuất công nghiệp (SXCN - IIP) tháng 11/2021 tăng 5,5% so với tháng trước, và tăng 5,6% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, IIP tăng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái (cao hơn tốc độ tăng 3% của cùng kỳ năm 2020), dự báo cả năm sẽ tăng khoảng 4-4,5%.

Bốn là, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Tính chung 11 tháng đầu năm, CPI bình quân tăng 1,84% so với cùng kỳ 2020, là mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua và lạm phát cơ bản 11 tháng đầu năm tăng 0,82% so với cùng kỳ năm 2020; và dự báo cả năm nay ở mức khoảng 2% - cho thấy lạm phát tiếp tục được kiểm soát, trong bối cảnh giá cả hàng hóa và lạm phát toàn cầu tăng và đang ở mức cao, với một số lý do chính như tôi đã nêu trên Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài đang phục hồi trở lại. Trong 11 tháng năm 2021, vốn FDI đăng ký ước đạt 26,46 tỷ USD, tương đương so với cùng kỳ năm trước, giải ngân FDI dù dịch bệnh diễn biến phức tạp cũng chỉ bị giảm nhẹ (-4,2%) cho thấy xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vẫn đang diễn ra, nhờ Việt Nam đang dần kiểm soát được dịch bệnh, đã và đang nỗ lực tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh.

Với việc Việt Nam thay đổi chiến lược phòng, chống dịch phù hợp hơn, vắc xin được bao phủ rộng hơn; dự báo giải ngân FDI sẽ sớm phục hồi trở lại từ đầu năm tới. Sáu là, tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay tiếp tục giảm, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp. Tỷ giá khá ổn định; lãi suất cho vay tiếp tục giảm khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục đưa ra các gói tín dụng ưu đãi và thực hiện Thông tư 14 (ngày 7/9/2021 của Ngân hàng Nhà nước); từ đó, đồng hành, hỗ trợ Doanh nghiệp (DN) và người dân vượt qua khó khăn do dịch bệnh gây ra. Bảy là, quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế và DN được thúc đẩy. Thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt tăng nhanh. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong 9 tháng đầu năm, hệ thống bù trừ điện tử và chuyển mạch giao dịch tài chính tăng 96,6% về số lượng và 133,1%; thanh toán qua kênh điện thoại di động (Mobile banking) tăng 76,2% về số lượng và 88,3% về giá trị. Đặc biệt, thanh toán qua kênh QR code tăng 64,1% về số lượng và 127,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Tám là, hoạt động hội nhập và đối ngoại tiếp tục đạt kết quả tích cực, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Trong năm 2021, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới được cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín là Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch giữ nguyên hệ số tín nhiệm quốc gia, nâng triển vọng từ ổn định lên "tích cực".

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 - Ảnh 2.

TS. Cấn Văn Lực phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 – Phục hồi và phát triển bền vững.

Những nỗ lực kiểm soát dịch bệnh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của Chính phủ được các nhà đầu tư đánh giá tích cực. Các tổ chức quốc tế dự báo triển vọng của nền kinh tế Việt Nam năm như thế nào, thưa chuyên gia?

TS. Cấn Văn Lực: Như trên đã đề cập, các tổ chức quốc tế vẫn đánh giá lạc quan về triển vọng của nền kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn. Theo đó, dự báo kinh tế Việt Nam năm 2022 tăng trưởng ở mức khoảng 6,5-7%, nếu Việt Nam thiết kế và thực hiện tốt Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH gắn với Chiến lược phòng chống dịch (theo đó, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt 6,6% năm 2022; ADB 6,5%; WB 6,5-7%). Đây cũng là mức tương đương với mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề ra năm 2022, trong đó GDP tăng khoảng 6-6,5%, CPI kiểm soát ở mức dưới 4% (chúng tôi dự báo khoảng 3,4-3,7%) Tăng trưởng có thể được hỗ trợ bởi 4 yếu tố: dịch bệnh được kiểm soát, tiến trình tiêm vắc xin được đẩy mạnh; sự phục hồi của cầu nội địa; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và thu hút vốn đầu tư tư nhân; tận dụng tốt cơ hội do các FTA mang lại và sự phục hồi của các đối tác thương mại chính của Việt Nam, và sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tiến trình phục hồi toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng có thể bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát của các biến chủng COVID-19 mới (như Omicron) khiến nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng tiêu cực, chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu có thể bị gián đoạn, đứt gãy phần nào; cũng như áp lực lạm phát còn tăng và tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai khó lường.

Chuyên gia có thể chia sẻ những nhóm chính sách vĩ mô Chính phủ sẽ triển khai năm 2022 – Một năm quan trọng trong giai đoạn 2021-2025, để có cơ sở dần đạt được các mục tiêu về kinh tế xã hội của 5 năm?

TS. Cấn Văn Lực: Hiện nay, bên cạnh việc khẩn trương, quyết liệt thực hiện các gói, chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã ban hành; Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội 2 năm tới cũng như Chiến lược phòng chống dịch. Theo đó, trong năm 2022, chính sách vĩ mô của Chính phủ dự kiến sẽ bao gồm: Thứ nhất, triển khai Chương trình phục hồi, phát triển KT-XH giai đoạn 2022-2023, trong đó sẽ tập trung vào 4 cấu phần: (i) mở cửa nền kinh tế phù hợp, (ii) tiếp tục các chính sách an sinh xã hội, (iii) phục hồi doanh nghiệp (gồm cả lao động), và (iv) tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó có cả hạ tầng số. Song song với đó, Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách, chương trình khác như Chiến lược phòng chống dịch, đề án cơ cấu lại nền kinh tế, các chương trình về chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nông thôn mới, liên kết vùng và nâng cao năng lực chống chịu với các cú sốc bên ngoài (bao gồm cả nâng cao năng lực y tế, chống biến đổi khí hậu…). Chính phủ cũng sẽ tập trung vào 3 đột phá chiến lược: (i) cải cách thể chế, môi trường đầu tư – kinh doanh, (ii) phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại, và (iii) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nếu các nhóm chính sách nêu trên được nhanh chóng ban hành và triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm 2022, thì sẽ góp phần tích cực giúp nền kinh tế phục hồi, tăng trưởng cao hơn trong giai đoạn 2022-2023, cũng như tạo điều kiện hoàn thành kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2021- 2025 mà Đảng và Quốc hội đã giao.

Để hiện thực hóa các triển vọng kinh tế Việt Nam thành những kết quả kinh tế - xã hội khả quan và bền vững, chuyên gia sẽ hiến kế, đề xuất giải pháp gì?

TS. Cấn Văn Lực: Để phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới, chúng tôi có 4 đề xuất như sau. Một là, sớm hoàn thiện và ban hành Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 và nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện. Chương trình này cần gắn kết với Chiến lược phòng chống dịch, đề án cơ cấu lại nền kinh tế và 3 đột phát chiến lược như đã nêu trên. Hai là, đẩy nhanh, quyết liệt cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh; kiên quyết tháo gỡ rào cản, vướng mắc sớm nhất có thể. Sớm sửa đổi các Bộ luật được sự quan tâm lớn của người dân và doanh nghiệp hiện nay như một luật sửa 8 luật, luật Đất đai, luật Nhà ở, luật Kinh doanh Bất động sản… Ba là, phối hợp chính sách, nhất là giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm: (i) thực hiện thành công Chương trình phục hồi, phát triển KT-XH, (ii) kiểm soát rủi ro phát sinh, rủi ro lạm phát, rủi ro tài khóa (do phải chấp nhận nợ công, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ, tín dụng tăng trong tầm kiểm soát), (iii) kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính (đan xen giữa lĩnh vực ngân hàng – chứng khoán – bảo hiểm); (iv) Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, hệ thống chia sẻ thông tin phục vụ hiệu quả phối hợp chính sách từ hoạch định đến khâu thực thi… Bốn là, có kế hoạch, giải pháp đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô (nhất là kiểm soát lạm phát, giá cả, nợ xấu… đang gia tăng), đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ, tài khóa, đưa về quỹ đạo ổn định, bền vững hơn sau khi kết thúc Chương trình phục hồi kinh tế xã hội giai đoạn 2022-2023.

Trân trọng cảm ơn ông!

(Bài viết đăng trên Tạp chí Thông tin và Truyền thông số đặc biệt chào năm mới 2022 - Xuân Nhâm Dần)

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO