Xu thế tất yếu của khu vực ASEAN
Theo báo cáo Triển vọng Năng lượng ASEAN lần thứ 6, nhu cầu năng lượng của ASEAN sẽ tăng đáng kể 146% vào năm 2040. Bên cạnh các vấn đề an ninh năng lượng, hậu quả của nhu cầu năng lượng gia tăng này là sự gia tăng phát thải khí nhà kính (GHG), có khả năng đạt 4.171 triệu tấn CO2- eq vào năm 2040. Do đó, khu vực cần ưu tiên quan tâm giải quyết hài hòa giữa nhu cầu năng lượng tiếp tục tăng cao và sự tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu mang lại.
Dựa trên các thiết lập chính sách ngày nay, nhu cầu năng lượng trong khu vực sẽ tăng khoảng 3% một năm vào năm 2030, với 3/4 nhu cầu gia tăng đó được đáp ứng bằng nhiên liệu hóa thạch. Do đó, lượng phát thải CO2 của Đông Nam Á sẽ tăng 35% so với mức năm 2020. Và nếu không có hành động chính sách mạnh mẽ hơn, hóa đơn nhập khẩu dầu ròng của các nước này, ở mức 50 tỷ USD vào năm 2020, sẽ nhân lên nhanh chóng nếu giá hàng hóa cao như hiện nay vẫn tiếp tục.
Trước những thách thức đó, chuyển đổi năng lượng sạch đang trở thành xu hướng mạnh mẽ tại khu vực, khi mà nhu cầu năng lượng dự báo sẽ tiếp tục gia tăng. Thái Lan hiện có công suất lắp đặt năng lượng tái tạo trên 15 GW, đóng góp khoảng 1/3 tổng lượng điện năng. Con số này được dự báo sẽ tăng lên 63 GW, chiếm 39% thị phần vào năm 2030. Mục tiêu của Thái Lan là trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về năng lượng tái tạo.
Theo Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-Cha, Thái Lan sẽ tăng cường các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu để đất nước chúng tôi có thể đạt được mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050, cũng như mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính vào năm 2065.
Nhiều quốc gia Đông Nam Á khác cũng đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng xanh. Malaysia đặt mục tiêu đưa công suất lắp đặt năng lượng tái tạo đạt 40%, tương đương 18 nghìn MW vào năm 2035. Hiện con số này là hơn 8 nghìn MW, khoảng 23% tổng công suất điện. Cùng với đó, Malaysia đang có kế hoạch xây dựng 3 hòn đảo năng lượng xanh, sử dụng hoàn toàn năng lượng tái tạo.
Indonesia cũng đã công bố lộ trình chuyển đổi năng lượng xanh. Từ năm 2030, công suất điện bổ sung của Indonesia sẽ chỉ đến từ các nguồn năng lượng mới và tái tạo, trong khi các nhà máy điện hạt nhân sẽ hòa mạng lưới điện quốc gia vào năm 2049.
Đáng chú ý, Việt Nam hiện là quốc gia đi đầu về chuyển đổi năng lượng tại Đông Nam Á, dẫn đầu khối cả về quy mô và tỷ lệ các nguồn điện gió, điện mặt trời, chiếm 27% tổng công suất. Sau năm 2030, Việt Nam sẽ không phát triển thêm các nhà máy điện than mới và từng bước loại bỏ các nhà máy đã vận hành nhiều năm, công nghệ lạc hậu. Việc phát triển thêm các nguồn năng lượng tái tạo, giảm dần năng lượng hóa thạch sẽ giúp nước ta hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cần đầu tư trung bình 210 tỷ USD/năm vào năng lượng tái tạo
Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Tái tạo quốc tế (IRENA) , về dài hạn, các nước Đông Nam Á cần đầu tư trung bình 210 tỷ USD/năm vào năng lượng tái tạo trong giai đoạn từ nay đến năm 2050. Khoản tiền này sẽ giúp mở rộng hỗ trợ công nghệ và cơ sở hạ tầng, mở rộng các khoản đầu tư bao gồm đầu tư vào năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học, nhiên liệu hydrogen.
Báo cáo của IRENA nhấn mạnh Đông Nam Á phải hành động ngay bây giờ để đảo ngược sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, trong đó phần lớn đến từ các nguồn cung bên ngoài khu vực, do đó làm tăng khả năng tiếp xúc với hàng hóa toàn cầu vốn dễ biến động và ngày càng đắt đỏ. Và ASEAN cần hướng đến các con đường chuyển đổi năng lượng bằng cách sử dụng các nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo dồi dào, chi phí rẻ có sẵn trong khu vực. Mức đầu tư này dự kiến cao gấp 2,5 lần so với khoản ngân sách mà chính phủ các nước Đông Nam Á đang lên kế hoạch để đạt mục tiêu về khí hậu, góp phần hạn chế tăng nhiệt toàn cầu ở mức 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Cơ quan Năng lượng Tái tạo quốc tế nhấn mạnh, việc ngừng sử dụng than đá, cùng với tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và kết nối lưới điện khu vực là bước đi cần thiết để đạt các mục tiêu về phát thải. Với việc đầu tư nhiều hơn vào năng lượng tái tạo, đến năm 2050, ASEAN cũng có thể giảm chi phí năng lượng và tiết kiệm được 1.500 tỷ USD liên quan đến sức khỏe của con người và thiệt hại môi trường do sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
ASEAN được thiết lập để đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu với tư cách là nhà cung cấp chính các khoáng sản quan trọng và nhà sản xuất các sản phẩm năng lượng sạch. Indonesia và Philippines là hai nước sản xuất niken lớn nhất thế giới; Indonesia và Myanmar là các nước sản xuất thiếc lớn thứ hai và thứ ba; Myanmar chiếm 13% sản lượng đất hiếm toàn cầu; và ASEAN cung cấp 6% bauxite của thế giới.
Trong khi đó, Malaysia và Việt Nam là nhà sản xuất mô-đun điện mặt trời lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới, trong khi Thái Lan là nhà sản xuất ô tô lớn thứ 11 trên thế giới và có thể trở thành trung tâm sản xuất xe điện chính. Đầu tư vào khai thác khoáng sản đã giảm trong những năm gần đây và tỷ trọng ngân sách thăm dò khoáng sản toàn cầu của khu vực đã giảm một nửa kể từ năm 2012. Xu hướng này cần phải đảo ngược nếu ASEAN nhận ra tiềm năng của mình trong lĩnh vực đang phát triển này.
Nuki Agya Utama, Giám đốc điều hành Trung tâm Năng lượng ASEAN, cho biết việc tăng tốc chuyển đổi năng lượng là rất quan trọng để đáp ứng các mục tiêu khí hậu và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của khu vực.
"Được dẫn dắt bởi Kế hoạch hành động ASEAN về hợp tác năng lượng giai đoạn đoạn II, ASEAN cam kết đạt được 23% tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp vào năm 2025", Nuki nói và cho biết thêm rằng kế hoạch hành động chi tiết của khu vực bao gồm nỗ lực tối ưu hóa công nghệ than sạch./.