DN công nghệ số Việt Nam: Cần phát huy sức mạnh “cộng hưởng” để phát triển
Giờ đây, việc mở rộng thị trường đầu tư, phát triển theo hướng “xuyên biên giới” chính là một hướng đi đúng đắn, cần được ưu tiên đối với các doanh nghiệp công nghệ số (DNCNS) Việt Nam.
Khi làm tốt điều này, là góp phần tạo dựng, khẳng định thương hiệu công nghệ số “Make in Viet Nam” trên trường quốc tế. Để hiểu rõ hơn về hướng đi, mô hình phát triển này, mới đây đại diện tiêu biểu các DNCNS Việt Nam đã có những chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời đưa ra đề xuất, giải pháp vì sự phát triển bền vững của ngành công nghệ số Việt Nam.
Cần sức mạnh cộng hưởng để cùng phát triển
Khi nói về điều này tại Hội nghị “Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đi ra thế giới” vừa được tổ chức, ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel chia sẻ rằng, các DN công nghệ số hiện nay muốn phát triển, ngoài những nỗ lực, quyết tâm hành động ở trong nước cũng cần phải có sự thay đổi, chủ động với tâm thế hướng, vượt “biên giới đa quốc gia”.
Đây chính là một hướng đi đúng đắn của sự phát triển trong xu thế bền vững, khẳng định mình và Viettel đã thực hiện chiến lược này từ nhiều năm trước, giúp tập đoàn: Mở rộng thị trường, tạo không gian phát triển mới; tạo ra môi trường để đào tạo con người; gia tăng giá trị thương hiệu Việt Nam trên toàn thế giới.
Hơn nữa, ông Tào Đức Thắng còn khẳng định, khi các sản phẩm công nghệ số của Việt Nam được các nước sử dụng, đón nhận sẽ góp phần đẩy mạnh quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các quốc gia đang đầu tư, đồng thời là kênh đầu tư hiệu quả để truyền bá, nhân rộng rãi hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, với các giá trị và lợi ích thuận lợi, cơ bản trên, xu thế mở rộng thị trường của các DN công nghệ số của Việt Nam cũng chứa đầy những thách thức không nhỏ, đó là: vẫn còn có sự khác biệt về các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, hệ thống chính trị, luật pháp; sự bất ổn chính trị một số quốc gia; rủi ro về tỷ giá, khan hiếm ngoại tệ; chưa có hiệp định bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần ở một số quốc gia; những khó khăn khi xảy ra tranh chấp pháp lý; đơn lẻ, không có cộng đồng DN đi cùng; chưa tạo được sức mạnh cộng hưởng khi đi ra nước ngoài...
Nhằm giảm thiểu những khó khăn, hạn chế nêu trên, đồng thời DN muốn tạo giá trị và hiệu quả đầu tư, điều cần không thể thiếu là phải: Tìm hiểu, thấu hiểu văn hóa, luật pháp, cách làm việc tại các địa phương; thượng tôn pháp luật các nước trong mọi hoạt động để hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra; gắn kết với chính quyền địa phương, cùng tham gia xây dựng chính sách ngành; thâm nhập sâu vào đời sống của người dân các nước để tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tiễn; phát huy vai trò làm chủ của nhân sự người bản địa để gắn lợi ích của DN với lợi ích của đất nước, người dân địa phương...
Bên cạnh những quan điểm quan trọng nêu trên, ông Tào Đức Thắng cũng đưa ra những đề xuất, kiến nghị: Đảng, Nhà nước, Chính phủ tích cực thống nhất, ban hành các nghị quyết chuyên đề thúc đẩy các DN đi ra nước ngoài, đồng thời, sớm hoàn thiện các cơ sở pháp lý tại Việt Nam để có đủ các quy định cho các hoạt động tại nước ngoài (mua bán sáp nhập, thoái vốn tại nước ngoài).
“Đặc biệt, các bộ, ngành chức năng cần phối kết hợp chặt chẽ, ban hành thêm các cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ các DN mở thị trường. Việc tích cực hỗ trợ các DN lớn sẽ dẫn dắt các DN khác tạo sức mạnh cộng hưởng để cùng phát triển”, ông Tào Đức Thắng đề xuất.
DNCNS cần chủ động, “vươn mình” hội nhập
Cũng được coi là một điển hình trong việc đưa các sản phẩm số “hướng ngoại”, khi nói về các giá trị và lợi ích to lớn khác tạo ra, ông Phạm Thái Sơn, Tổng giám đốc công ty NTQ Solution cho rằng, cơ hội cho các DN CNTT Việt Nam nếu tiếp cận các khu vực là những “nước giàu”, “tiệm cận giàu” là rất lớn và đa dạng các sản phẩm về dịch vụ số.
Cụ thể về điều này, ông Phạm Thái Sơn cho biết, các dịch vụ liên quan đến lĩnh vực CNTT và các các giải pháp hỗ trợ chuyển đổi số đang chiếm tỷ trọng lớn, trở thành một nhu cầu chi tiêu, đầu tư không thể thiếu của mỗi DN. “Đối với hai lĩnh vực này, có thể đạt 4,6 nghìn tỷ USD vào năm 2023, trong đó, thị phần chỉ số về: Dịch vụ truyền thông (2,40%); hệ thống trung tâm dữ liệu (3,40%); phần mềm (11,30%); thiết bị (0,60%); dịch vụ CNTT (7,90%).
Không chỉ nêu, dẫn chứng về những lợi thế được tạo ra trong xu thế tiềm năng đó, ông Phạm Thái Sơn cũng đưa ra đánh giá, nhận định về xu thế chung này, đó là giờ đây, các DN số Việt Nam muôn phát triển cần phải mạnh mẽ, chủ động “vươn mình” để hội nhập.
Trong sự hội nhập này, DN Việt Nam sẽ nhiều lợi thế để thúc đẩy các sản phẩm số, ứng dịch vụ CNTT. “Bởi lẽ, trong sự phát triển chung của đất nước, chúng ta đã thiết lập, ký kết ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới mà điển hình tiêu biểu chính là Hiệp định hợp tác thương mại quan trọng (EFTA, EVFTA, RCEP...)”, ông Phạm Thái Sơn dẫn chứng.
Hơn nữa, ông Phạm Thái Sơn còn khẳng định, khi chúng ta có cơ chế, chính sách, các ký kết ngoại giao, điều này sẽ thúc đẩy chuỗi cung ứng dịch vụ CNTT phát triển, gia tăng thêm các giá trị lợi ích, tiềm năng.
Các DN số Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được các mục tiêu thành công ở thị trường nước ngoài, bởi ở thị trường trong nước chúng ta đang có sức mạnh công nghệ được kiểm chứng hiệu quả qua thực tế đó là: Chúng ta đã đạt độ phủ sóng về hạ tầng băng thông rộng di động trên toàn quốc (99,73%); đạt gần 1 triệu nhân sự ngành ICT; số lượng hùng hậu 500.000 lập trình viên/kỹ sư CNTT ngành phần mềm; chi phí dịch vụ CNTT chỉ bằng 1/3 - 1/4 chi phí so với các nước bản địa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh tiểm năng có sẵn, DNCNS Việt Nam muốn thành công cũng cần phải có những chiến lược và tầm nhìn đúng đắn để tập trung như: Xác định nơi đầu tư, hợp tác phải có nhu cầu lớn về các sản phẩm số hoặc khan hiếm nguồn nhân lực CNTT; có thêm các chuyên môn cao trong việc bán các sản phẩm công nghệ; có thêm các đối tác kinh doanh - công nghệ - tư vấn - liên minh; hướng nguồn nhân lực CNTT Việt Nam trở thành công dân toàn cầu (global citizen)...
Các sản phẩm số được đảm bảo an toàn trên công nghệ blockchain
Ở quan điểm khác khi nói về việc lựa chọn lĩnh vực lợi thế để DNCNS Việt Nam phát triển, ông Nguyễn Huy, Giám đốc công nghệ công ty Kadia cho rằng lực lượng nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam đủ đáp ứng về trình độ, yêu cầu hợp tác của các đối tác, DN nước ngoài.
Nguồn nhân lực CNTT, kỹ sư công nghệ Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ứng dụng, sản phẩm công nghệ số, nền tảng số có khả năng truyền tải dữ liệu một cách an toàn dựa trên hệ thống mã hóa - chuỗi khối blockchain.
Ngoài ra, các DN số Việt Nam cũng cần chọn đúng công nghệ mới và chỉ khi chúng ta hướng đến các sản phẩm,dịch vụ từ công nghệ mới tức là chúng ta tao ra vạch xuất phát ngang bằng với các công ty công nghệ số toàn cầu.
“Các khách hàng nước ngoài luôn cởi mở và cập nhật với các công nghệ mới và điều này sẽ tạo ra sức mua, tiêu thụ lớn các sản phẩm công nghệ số mới chất lượng của Việt Nam”, ông Nguyễn Huy nhận định./.