Giải pháp góp phần bảo đảm hiệu quả chuyển đổi xanh gắn với giảm nghèo và an sinh xã hội
Bản chất của chuyển đổi xanh không chỉ là sự thay đổi công nghệ hay cơ cấu kinh tế, mà là sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận phát triển, hướng tới hài hòa giữa mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường, bảo đảm chất lượng sống cho hiện tại và tương lai.
Chuyển đổi xanh: Trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Tại hội thảo khoa học quốc gia “Chuyển đổi xanh ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” tổ chức mới đây, PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến, Giám đốc Học viện Hành chính và Quản trị công cho biết: Theo góc nhìn quản trị công, chuyển đổi xanh là một tiến trình cải cách cơ cấu kinh tế - xã hội có định hướng chiến lược, do Nhà nước giữ vai trò trung tâm trong lãnh đạo, điều phối và giám sát.

Mục tiêu của tiến trình này không chỉ dừng lại ở việc giảm phát thải khí nhà kính về mức ròng bằng không mà còn bao gồm phục hồi và bảo tồn vốn tự nhiên, tăng cường khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội và an sinh cho mọi nhóm dân cư, đặc biệt là nhóm dễ bị tổn thương.
Nhiều nghiên cứu quốc tế cho thấy, chuyển đổi xanh nếu chỉ được tiếp cận từ góc độ kỹ thuật hoặc kinh tế sẽ dễ rơi vào tình trạng thiên lệch: nếu quá tập trung vào công nghệ sẽ thiếu cơ chế phối hợp hoặc chỉ chú trọng vào tín hiệu thị trường mà bỏ qua khía cạnh công bằng phân phối.
“Chỉ khi được lồng ghép trong một hệ thống quản trị công hiệu quả - nơi các quyết định chiến lược, phân bổ nguồn lực, cơ chế giám sát và các chính sách hỗ trợ xã hội được triển khai đồng bộ - thì chuyển đổi xanh mới đạt được cả ba mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và bảo đảm công bằng xã hội”, PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến nhấn mạnh.
TS. Nguyễn Đức Toàn, Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền nêu rõ, chuyển đổi xanh là quá trình tái cấu trúc toàn diện mô hình phát triển theo hướng bền vững, trong đó tăng trưởng kinh tế xã hội gắn liền với bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và thích ứng với biến đổi khí hậu. Bản chất của chuyển đổi xanh không chỉ là sự thay đổi công nghệ hay cơ cấu kinh tế mà là sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận phát triển, hướng tới hài hòa giữa mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường, bảo đảm chất lượng sống cho hiện tại và tương lai.

Nội dung cốt lõi của chuyển đổi xanh bao gồm: Xanh hóa sản xuất - thông qua ứng dụng công nghệ sạch, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính; Xanh hóa tiêu dùng - thúc đẩy tiêu dùng bền vững, thân thiện môi trường, hình thành văn hóa tiêu dùng xanh; Xanh hóa lối sống và quản trị - xây dựng hệ thống quản lý, chính sách, thể chế thúc đẩy phát triển xanh, phát triển các ngành kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo...
“Ở Việt Nam, chuyển đổi xanh được xác định là nội dung trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và các chương trình hành động thực hiện cam kết trung hòa carbon vào năm 2050. Thực hiện thành công chuyển đổi xanh sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm an ninh sinh thái và hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn”, TS. Nguyễn Đức Toàn nhấn mạnh.
Đảm bảo cho chuyển đổi xanh công bằng
Theo PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến, trong bối cảnh chuyển đổi xanh, việc áp dụng các nguyên tắc quản trị công đóng vai trò định hướng nhằm bảo đảm rằng tiến trình thực hiện không chỉ đạt được các mục tiêu môi trường mà còn duy trì ổn định xã hội và tính bền vững dài hạn.
Trước hết, nguyên tắc công bằng xã hội đòi hỏi mọi chính sách giảm phát thải phải được thiết kế song hành với các cơ chế hỗ trợ phù hợp cho những nhóm dân cư và ngành nghề chịu tác động bất lợi, điển hình như lao động trong các ngành khai thác than, sản xuất xi măng hoặc luyện kim.
Bên cạnh đó, nguyên tắc hiệu lực và hiệu quả nhấn mạnh yêu cầu đạt được các mục tiêu môi trường với chi phí xã hội thấp nhất, thông qua việc tối ưu hóa phân bổ nguồn lực, áp dụng các công cụ kinh tế - môi trường như thuế carbon, tín chỉ phát thải và ưu tiên các giải pháp có tác động lan tỏa cao.
Nguyên tắc minh bạch và trách nhiệm giải trình đóng vai trò củng cố niềm tin xã hội, khi mọi thông tin về tác động, nguồn lực huy động, tiến độ triển khai và kết quả đạt được được công khai, cho phép các bên liên quan giám sát và phản hồi.
Cuối cùng, nguyên tắc tham gia khuyến khích sự đóng góp tích cực của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng, thực thi và giám sát chính sách.
Giải pháp góp phần bảo đảm hiệu quả chuyển đổi xanh gắn với giảm nghèo và an sinh xã hội
Từ thực tế nêu trên, PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến đã đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm hiểu quả chuyển đổi xanh gắn với giảm nghèo và an sinh xã hội.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và cơ chế điều phối
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng một khung thể chế thống nhất nhằm lồng ghép mục tiêu năng lượng, giảm phát thải và an sinh xã hội trong cùng một chiến lược điều hành.
Đồng thời, cần thành lập Ban Điều phối Chuyển đổi xanh công bằng cấp quốc gia, trực thuộc Chính phủ, với chức năng điều phối ngân sách, thống nhất lộ trình triển khai, theo dõi tiến độ và công khai báo cáo hằng năm.
Bên cạnh đó, cần lồng ghép mục tiêu xã hội như giảm nghèo, bao phủ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, đào tạo lại lao động vào các quy hoạch ngành và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Một yêu cầu không thể thiếu là ứng dụng công nghệ số trong điều phối và giám sát, thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chuyển đổi xanh công bằng, kết nối thông tin từ các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm tính minh bạch và khả năng truy cập cho mọi bên liên quan.
Thứ hai, tăng cường chính sách an sinh chủ động cho nhóm người bị ảnh hưởng
Nhà nước cần mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội cho lao động phi chính thức và nhóm bị mất việc do đóng cửa hoặc thu hẹp các cơ sở sản xuất sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Bên cạnh đó, cần triển khai chính sách hỗ trợ thu nhập tạm thời trong khoảng 3 - 6 tháng để giúp người lao động duy trì cuộc sống trong giai đoạn tìm kiếm việc làm mới.
Về y tế, Nhà nước cần giảm tỷ lệ đồng chi trả bảo hiểm xã hội cho nhóm lao động bị ảnh hưởng và bổ sung các bệnh nghề nghiệp liên quan đến ô nhiễm môi trường vào danh mục được bảo hiểm chi trả, phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về bảo vệ sức khỏe trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Thứ ba, huy động và quản lý tài chính xanh
Trước hết, cần triển khai thuế và giá carbon theo lộ trình đạt mức 29 USD/tCO2e vào năm 2030, phù hợp với cam kết giảm phát thải trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam; tối thiểu 30% doanh thu từ thuế/giá carbon.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh đàm phán trong khuôn khổ JETP (Just Energy Transition Partnership) và các gói hỗ trợ quốc tế khác nhằm nâng tỷ lệ viện trợ không hoàn lại, đồng thời giảm sự phụ thuộc vào các khoản vay thương mại có lãi suất cao.
Thứ tư, minh bạch, giám sát và sự tham gia của xã hội
Để hiện thực hóa mục tiêu này, trước hết cần xây dựng và triển khai Bộ Chỉ số Chuyển đổi xanh công bằng cấp tỉnh. Bộ chỉ số này không chỉ đo lường tiến độ giảm phát thải hay tăng trưởng năng lượng tái tạo, mà còn tích hợp các tiêu chí xã hội như số lượng việc làm xanh, tỷ lệ lao động được đào tạo lại, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội/bảo hiểm y tế, tỷ lệ nghèo đa chiều và chỉ số chất lượng không khí.
Tiếp theo, cần công khai dữ liệu về tác động xã hội của các dự án năng lượng lớn, bao gồm số lượng lao động bị ảnh hưởng, chi phí bồi thường tái định cư và các biện pháp hỗ trợ sinh kế.
Bên cạnh đó, tham vấn cộng đồng bắt buộc phải trở thành một bước trong quy trình phê duyệt các dự án chuyển đổi năng lượng, đặc biệt tại các khu vực dễ tổn thương về kinh tế - xã hội hoặc môi trường.
Cuối cùng, cần thúc đẩy hợp tác công - tư trong giám sát và thực hiện các chương trình an sinh gắn với chuyển đổi xanh./.