Làm rõ định nghĩa, nội hàm, lượng hóa một số khái niệm mới trong Nghị quyết số 57
Bộ Khoa học và Công nghệ vừa có văn bản hướng dẫn làm rõ định nghĩa, nội hàm, lượng hóa một số khái niệm mới trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Cụ thể, văn bản đã làm rõ các định nghĩa, nội hàm của: (1) Bản sao số của thành phố; (2) Năng lực cạnh tranh số quốc gia; (3) Kinh tế dữ liệu; (4) Học tập số; (5) Năng lực số; (6) Doanh nghiệp (DN) công nghệ số Việt Nam ngang tầm DN công nghệ của các nước tiên tiến.
Cùng với đó, hướng dẫn cũng nêu rõ các đề xuất cách thức tổ chức thực hiện các nội dung trên cho các bộ, ngành, địa phương, các DN công nghệ số.
Bản sao số của thành phố
Bản sao số (Digital Twin) của thành phố là mô hình số của một thành phố, được tạo ra bằng cách sử dụng dữ liệu thời gian thực, công nghệ mô phỏng và các hệ thống phân tích để tái hiện cấu trúc vật lý của thành phố và các quá trình diễn ra trong thành phố đó. Bản sao số của thành phố giúp quản lý thành phố được hiệu quả và tối ưu hóa các nguồn tài nguyên của thành phố.

Bản sao số của thành phố bao gồm các đặc trưng sau:
- Là một phiên bản kỹ thuật số chi tiết của thành phố, bao gồm các yếu tố vật lý (như tòa nhà, đường xá, cầu cống, hệ thống hạ tầng,…) và phi vật lý (dân số, giao thông, kinh tế, môi trường,…).
- Được xây dựng dựa trên dữ liệu thu thập liên tục từ nhiều nguồn như cảm biến IoT, camera, hệ thống định vị toàn cầu (GPS), các hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) và thông tin, dữ liệu từ người dân, DN.
- Các thành phần trong bản sao số (hạ tầng, con người, môi trường) được kết nối với nhau, phản ánh mối quan hệ tương tác trong thực tế.
- Cho phép mô phỏng các kịch bản (như ùn tắc giao thông, ngập lụt, tăng dân số,…) và dự đoán xu hướng tương lai dựa trên dữ liệu và thuật toán phân tích để hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu.
- Sử dụng các công nghệ nền tảng bao gồm Internet vạn vật (IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI), Điện toán đám mây, Hệ thống thông tin địa lý (GIS) và các công nghệ mô phỏng 3D, VR, AR,…

- Được ứng dụng trong công tác quản lý đô thị (giao thông, năng lượng, môi trường,…), quy hoạch xây dựng, ứng phó với các tình huống khẩn cấp và giúp nâng cao tương tác giữa chính quyền với người dân thông qua sự tham gia tích cực của người dân trên các nền tảng, dịch vụ số của chính quyền.
Các bộ, ngành Trung ương: Bộ KH&CN, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu xây dựng khung pháp lý và chính sách hỗ trợ việc triển khai thí điểm bản sao số cho thành phố, trong đó bao gồm chính sách khuyến khích thu hút DN Việt Nam tham gia triển khai để làm chủ giải pháp, công nghệ; Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn liên quan để phát triển bản sao số cho thành phố.
Các địa phương chủ động nghiên cứu, xây dựng Đề án thí điểm triển khai bản sao số cho thành phố; Triển khai thực hiện Đề án thí điểm với lộ trình cụ thể, phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương; Giám sát hiệu quả hạ tầng kỹ thuật của thành phố thông qua bản sao số để tối ưu hóa việc vận hành (giao thông, các công trình công cộng,..), tiết kiệm và tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn tài nguyên của thành phố (nước, năng lượng, quỹ đất,…); Giám sát thực hiện công tác quy hoạch và thực thi quy hoạch xây dựng;
Phát triển các hệ thống, công cụ xử lý dữ liệu để hỗ trợ lãnh đạo chính quyền ra quyết định dựa trên dữ liệu và đưa vào triển khai ứng dụng (thay cách thức truyền thống); Tăng cường sử dụng và đề ra các yêu cầu về mức độ sử dụng công nghệ số để hỗ trợ phát triển thành phố theo hướng bền vững, xanh, thông minh.
Các DN công nghệ số nghiên cứu và cung cấp các giải pháp công nghệ tiên tiến, làm chủ công nghệ, giải pháp bản sao số cho thành phố; Tích hợp Mô hình thông tin đô thị CIM (City Information Modelling) và Mô hình thông tin xây dựng BIM (Building Information Modeling) nhằm xây dựng các mô hình toàn diện, cho phép quản lý thông tin đô thị và xây dựng một cách đồng bộ, từ quy hoạch đô thị đến bảo trì công trình; Phát triển hệ sinh thái các sản phẩm và dịch vụ mới dựa trên ứng dụng bản sao số để cung cấp cho chính quyền, người dân, DN.

Học tập số
Trong Nghị quyết số 57-NQ/TW, học tập số được hiểu là học tập kỹ năng số, là quá trình tiếp thu, phát triển và nâng cao kỹ năng, năng lực sử dụng công nghệ số một cách hiệu quả, phù hợp, an toàn và có trách nhiệm phục vụ cho mục đích cá nhân, học tập, nghề nghiệp hay tham gia xã hội trên môi trường số.

Nội hàm của học tập kỹ năng số bao gồm nhiều khía cạnh, từ kiến thức lý thuyết đến kỹ năng thực hành, từ cơ bản đến nâng cao liên quan đến: Kiến thức, kỹ năng công nghệ cơ bản; Kiến thức, kỹ năng truy cập, tìm kiếm, khai thác thông tin, dữ liệu trên môi trường số; Kiến thức, kỹ năng tương tác, giao tiếp và cộng tác trên môi trường Internet; Kiến thức, kỹ năng sáng tạo nội dung số; Kiến thức, kỹ năng đảm bảo an toàn trên môi trường số; Kiến thức kỹ năng nhận diện và giải quyết vấn đề trên môi trường số; Kỹ năng học tập liên tục và thích ứng.
Việc đo lường, lượng hóa học tập số được thực hiện thông qua: Số lượng tiếp cận các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kỹ năng số; Tỷ lệ học viên hoàn thành khóa học; Tỷ lệ người dân có kỹ năng cơ bản về công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT).
Năng lực số
Về năng lực số, hướng dẫn nêu rõ năng lực số là khả năng sử dụng công nghệ số để hoàn thành nhiệm vụ cụ thể hoặc để giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Năng lực số cho các đối tượng khác nhau sẽ có thể có nội hàm khác nhau.
Ví dụ, năng lực số cho người học theo Thông tư số 02/2025/TTBGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định gồm 6 miền năng lực thành phần, bao gồm: (i) Khai thác dữ liệu và thông tin; (ii) Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; (iii) Sáng tạo nội dung số; (iv) An toàn; (v) Giải quyết vấn đề; (vi) Ứng dụng AI.
Đo lường năng lực số được thực hiện theo Khung năng lực số cho từng đối tượng. Ví dụ, khung năng lực số cho người học bao gồm 6 miền năng lực với 24 năng lực thành phần, được chia thành 4 trình độ từ cơ bản đến chuyên sâu theo 8 bậc. Khung năng lực số cho người học làm cơ sở để đánh giá yêu cầu, kết quả đạt được về năng lực số của người học trong các chương trình giáo dục; xây dựng tiêu chí trong kiểm tra, đánh giá, công nhận năng lực số của người học.
DN công nghệ số Việt Nam ngang tầm DN công nghệ của các nước tiên tiến
DN công nghệ số Việt Nam ngang tầm DN công nghệ số của các nước tiên tiến là những DN công nghệ số Việt Nam có năng lực nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi, công nghệ chiến lược; Có quy mô và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong và ngoài nước, cạnh tranh được với các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, khẳng định vị thế trên thị trường toàn cầu; Có quy mô tương đương DN lớn của các nước tiên tiến; đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nội hàm của DN số bao gồm:
- DN do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do người Việt Nam nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. DN đăng ký hoạt động chính trong lĩnh vực công nghệ số, CNTT.
- DN được xếp hạng trong bảng xếp hạng của một số tổ chức quốc tế có uy tín như Forbes Global 2000 hoặc Fortune Global 500; hoặc đáp ứng các tiêu chí sau:
+ Có năng lực nghiên cứu, làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược: Có bằng sáng chế và phát minh đăng ký quốc tế.
+ Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số có khả năng cạnh tranh với các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới: sản phẩm, dịch vụ công nghệ số chiếm lĩnh thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
+ Quy mô (doanh thu, xuất khẩu và lao động) tương đương DN lớn của các nước tiên tiến.
+ Có hệ sinh thái sản xuất kinh doanh (SXKD) bền vững, mạng lưới phân phối đa dạng trong nước và quốc tế.
+ Có hoạt động SXKD tại nước ngoài.
+ Đã có văn phòng đại diện/chi nhánh tại nước ngoài.
Bộ KH&CN đang xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí để xác định DN công nghệ số Việt Nam ngang tầm DN công nghệ số của các nước tiên tiến.
Năng lực cạnh tranh quốc gia, kinh tế dữ liệu
Đối với những định nghĩa mà Việt Nam chưa có khái niệm như: Năng lực cạnh tranh quốc gia và kinh tế dữ liệu, hướng dẫn đã tham chiếu trên thế giới.
Cụ thể, về năng lực cạnh tranh số quốc gia, hướng dẫn nêu rõ: Việt Nam chưa có khái niệm về năng lực cạnh tranh số quốc gia. Hiện tại trên thế giới, có Trung tâm Cạnh tranh thế giới (World Competitiveness Center - WCC) thuộc Viện Phát triển quản lý quốc tế (International Institute for Management Development - IMD) thực hiện đánh giá và công bố xếp hạng năng lực cạnh tranh số thế giới từ năm 2017 đến nay (Việt Nam chưa tham gia đánh giá, xếp hạng).

Dựa trên Báo cáo xếp hạng năng lực cạnh tranh số thế giới năm 2024 của Trung tâm Cạnh tranh thế giới, năng lực cạnh tranh số được hiểu là: “Năng lực cạnh tranh số quốc gia (Digital competitiveness of nations) là khả năng của một quốc gia trong việc sử dụng và phát triển các công nghệ số để nâng cao năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia đó”.
Việc đo lường, lượng hóa năng lực cạnh tranh được dựa trên xếp hạng năng lực cạnh tranh số của Trung tâm Cạnh tranh thế giới công bố tháng 11/2024 được đánh giá theo 3 chỉ số chính gồm 9 chỉ số thành phần (mỗi chỉ số thành phần chiếm 11,1% điểm trọng số) và 59 tiêu chí. Trong đó, 3 chỉ số chính gồm:
- Kiến thức (Knowledge): Đánh giá năng lực quốc gia trong việc phát triển và thu hút nguồn nhân lực số.
- Công nghệ (Technology): Đánh giá mức độ sẵn sàng của hạ tầng và khung pháp lý để triển khai công nghệ số.
- Sẵn sàng cho tương lai (Future Readiness): Đánh giá khả năng thích nghi và tiếp cận công nghệ mới.
Về kinh tế dữ liệu, hiện nay, Việt Nam chưa có khái niệm về kinh tế dữ liệu. Hướng dẫn đề cập đến kinh nghiệm về kinh tế dữ liệu của Liên minh châu Âu (EU) về định nghĩa là “Nền kinh tế dữ liệu” là một thuật ngữ tổng quát bao gồm việc tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý, phân phối, phân tích, phân phối và khai thác dữ liệu được kích hoạt bởi công nghệ số.

Về nội hàm, kinh tế dữ liệu bao gồm:
- Giá trị trực tiếp: Doanh thu từ mua bán hàng hóa và dịch vụ liên quan đến dữ liệu (ví dụ: doanh thu từ mua bán dữ liệu trên các sàn giao dịch dữ liệu, các thị trường mua bán dữ liệu theo quy định của pháp luật; doanh thu từ việc bán các phần mềm, dịch vụ phân tích dữ liệu).
- Giá trị gián tiếp: Lợi ích kinh tế từ hiệu quả, đổi mới và tăng năng suất dựa trên dữ liệu trên khắp các lĩnh vực (ví dụ: chăm sóc sức khỏe, vận tải, sản xuất).
- Giá trị xã hội: Tác động phi tiền tệ như cải thiện dịch vụ công hoặc tính bền vững của môi trường.
Mục tiêu nhằm ghi nhận các hoạt động dựa trên thị trường (ví dụ: dữ liệu được giao dịch trên thị trường) và các đóng góp phi thị trường (ví dụ: dữ liệu mở được sử dụng cho nghiên cứu).
EU tiến hành đo lường nền kinh tế dữ liệu thông qua việc tích hợp các yếu tố như doanh thu, giá trị kinh tế, đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoạt động dữ liệu (khối lượng, chia sẻ, sử dụng) và vốn con người (việc làm, kỹ năng), thu thập thông tin các cuộc khảo sát, mô hình và phân tích theo ngành. Các hoạt động này được điều phối theo Tầm nhìn chiến lược của EU, với mục tiêu biến dữ liệu thành nền tảng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời bảo đảm tính tin cậy và công bằng. Các báo cáo, như Công cụ giám sát thị trường dữ liệu và Chỉ số kinh tế và xã hội Số (DESI) phân tích, đánh giá về tác động này trên toàn lục địa.
Tại Việt Nam, Bộ KH&CN giao Học viện Công nghệ Bưu chính, Viễn thông nghiên cứu các mô hình đo lường kinh tế dữ liệu trên thế giới để đề xuất phương pháp đo lường kinh tế dữ liệu trong năm 2025 - 2026.
Bộ KH&CN sẽ tổ chức thí điểm đo lường kinh tế dữ liệu tại một số địa phương để hoàn thiện phương pháp và tổ chức nhân rộng.
Hướng dẫn cũng có phụ phục tóm tắt về Bộ chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh số thế giới của IMD và đề xuất ác nội dung tham gia chuẩn bị, triển khai các giải pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh số của Việt Nam.
Theo Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông - Bộ KH&CN, văn bản hướng dẫn này làm rõ định nghĩa, nội hàm, lượng hóa các khái niệm mới trong Nghị quyết số 57-NQ/TW để đảm bảo việc thống nhất nhận thức và tổ chức triển khai, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị./.