Xây dựng thành công kho bạc số cần tăng cường ứng dụng công nghệ 4.0
Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt khi đại dịch COVID-19 xảy ra. Hiện nay, Kho bạc Nhà nước (KBNN) chủ trương từng bước áp dụng các nền tảng công nghệ hiện đại để hoàn thiện Kho bạc số là một trong các chiến lược quan trọng của KBNN; hoàn thiện Kho bạc số là nền tảng thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia.
Một số kết quả chuyển đổi số của KBNN
Kho bạc Nhà nước cho biết, thực hiện Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến năm 2020 theo Quyết định số 138/QĐ-TTg ngày 21/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2020, về cơ bản KBNN đã đạt được mục tiêu “các hoạt động KBNN được thực hiện trên nền tảng CNTT hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử”, thể hiện qua một số kết quả ứng dụng CNTT nổi bật của KBNN: Xây dựng và triển khai Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và Kho bạc (gọi tắt là TABMIS) giúp cho việc quản lý quỹ ngân sách nhà nước (NSNN) được hiệu quả từ triển khai phân bổ dự toán, quản lý kiểm soát cam kết chi NSNN, kiểm soát chi NSNN, kế toán thu, chi NSNN... và cung cấp thông tin báo cáo hàng ngày về thực hiện ngân sách của 4 cấp ngân sách được kịp thời.
Ngoài 2 thủ tục hành chính (TTHC) về thu NSNN đang sử dụng các dịch vụ thu của ngân hàng và các cổng thu của cơ quan thuế, cơ quan hải quan thì KBNN đã cung cấp 09 dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) để phục vụ 09/11 TTHC thuộc lĩnh vực KBNN gồm: lĩnh vực kiểm soát chi NSNN; lĩnh vực đăng ký và sử dụng tài khoản tại KBNN.
Đến nay đã có khoảng 100 ngàn đơn vị sử dụng ngân sách với số người dùng lên tới gần 400 ngàn người, đạt 100% các đơn vị giao dịch với KBNN (trừ khối an ninh quốc phòng) và trên 99,5% hồ sơ kiểm soát chi NSNN. Hàng năm khoảng 20 triệu chứng từ chi NSNN được thực hiện qua hệ thống DVCTT.
Theo KBNN, việc cung cấp DVCTT đã giúp cho các hoạt động của KBNN công khai, minh bạch, giảm nhũng nhiễu, tiêu cực trong công tác kiểm soát chi NSNN. Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân giao dịch với KBNN, DVCTT đã mang lại lợi ích trong việc giảm thiểu về TTHC, giảm thời gian giao dịch và tiết kiệm chi phí đi lại. 100% TTHC lên mức độ 4 và được tích hợp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia (DVCQG), vượt 20% so với kế hoạch Chính phủ yêu cầu tại Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số Quốc gia (đến năm 2025 là 80%, đến 2030 là 100% DVC ở mức độ 4).
Đặc biệt, từ năm 2021, KBNN đã tổng hợp giám sát từ xa tiến độ xử lý hồ sơ kiểm soát chi (KSC) và đánh giá sự hài lòng, thái độ phục vụ khách hàng giao dịch qua hệ thống DVCTT, qua đó KBNN tin tưởng sẽ có sự chuyển biến rất tích cực về chất lượng phục vụ các đơn vị sử dụng ngân sách và các chủ đầu tư, ban quản lý.
Bên cạnh đó, KBNN đã hoàn thành xây dựng và triển khai ứng dụng trên điện thoại di động cho đơn vị giao dịch có thể tra cứu số dư tài khoản tại KBNN, đạt trên 90% số đơn vị đã sử dụng trong khoảng 100 ngàn đơn vị. Đồng thời, KBNN đã triển khai kết nối liên thông hệ thống kế toán hành chính sự nghiệp tại đơn vị sử dụng ngân sách với hệ thống DVCTT để hình thành thêm kênh giao dịch điện tử với KBNN, đây là một bước tiến quan trọng trong việc hình thành Kho bạc điện tử, tiến tới Kho bạc số.
Ngoài ra, KBNN đã xây dựng và triển khai Chương trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư qua KBNN (Chương trình ĐTKB-GD) đáp ứng yêu cầu về quản lý, kiểm soát các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo: tổng mức đầu tư, hợp đồng và dự toán đối với trường hợp không thực hiện theo hợp đồng, kế hoạch vốn hàng năm, quản lý cam kết chi. Chương trình ĐTKB-GD được liên thông với các hệ thống CNTT khác, bao gồm: hệ thống DVCTT KBNN, hệ thống TABMIS, hệ thống tổng hợp báo cáo, hệ thống danh mục báo cáo… để đảm bảo việc quản lý, kiểm soát chi đầu tư qua KBNN được hiệu quả.
Đồng thời, việc cung cấp nhanh chóng, kịp thời và chính xác số liệu giải ngân vốn đầu tư công từ Chương trình ĐTKB-GD sẽ giúp Chính phủ, Bộ Tài chính có đầy đủ thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công của Chính phủ. Đây được coi là dự án về CNTT trong lộ trình tiến tới xây dựng Kho bạc số.
Bên cạnh đó, KBNN triển khai Đề án thanh toán tự động theo định kỳ các dịch vụ điện, nước, viễn thông... theo ủy quyền của các đơn vị sử dụng ngân sách. Việc hiện đại hóa quy trình thanh toán tự động cho các đơn vị giao dịch có mở tài khoản tại KBNN đang được tăng cường đẩy mạnh sau khi đã triển khai thành công DVCTT nhằm giúp đơn vị sử dụng ngân sách tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí và TTHC. Công chức KBNN giảm thời gian xử lý, khối lượng công việc, qua đó tập trung vào kiểm soát các khoản chi có độ rủi ro cao, giúp nâng cao hiệu quả quản lý của KBNN.
KBNN cũng đã hoàn thành xây dựng và triển khai hệ thống thông tin phối hợp thu NSNN với các cơ quan thu và hệ thống thanh toán với Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Qua đó đã góp phần cùng các cơ quan thu thực hiện trên 99% số lượng giao dịch thu NSNN trong khoảng 24 triệu giao dịch hàng năm được thực hiện theo phương thức điện tử, qua đó tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
KBNN đã hoàn thành xây dựng và triển khai Hệ thống tổng hợp báo cáo tài chính Nhà nước từ trên 55 nghìn đơn vị; Đấu thầu trực tuyến tiền gửi ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi tại các ngân hàng thương mại; Hệ thống dự báo ngân quỹ Nhà nước; Hệ thống quản lý trái phiếu chính phủ...
Trong lĩnh vực huy động vốn, quản lý ngân quỹ nhà nước đã đổi mới theo hướng an toàn, hiệu quả. Hoàn thành xây dựng tài khoản thanh toán tập trung của KBNN. Triển khai hệ thống quản lý ngân quỹ Nhà nước, phát triển các công cụ dự báo luồng tiền, thực hiện đầu tư ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi (cho vay và tạm ứng cho NSNN, gửi có kỳ hạn tại ngân hàng thương mại).
Việc tổ chức đấu thầu và ký hợp đồng được thực hiện theo phương thức điện tử, đảm bảo công khai, minh bạch và rút ngắn thời gian thực hiện, vừa nâng cao hiệu suất, hiệu quả quản lý, vừa tăng cường tính công khai, minh bạch. Gắn kết chặt chẽ giữa quản lý ngân quỹ Nhà nước với quản lý ngân sách và quản lý nợ, hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ.
Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến 2030
KBNN nhận thức Cách mạng công nghệ 4.0 mang lại nhiều tiềm năng ứng dụng trong công tác quản lý, có tốc độ biến đổi, tiến bộ về công nghệ là rất cao nên KBNN xác định không chỉ ứng dụng các thành quả của cuộc Cách mạng này trong bài toán chiến lược, dài hạn mà phải nghiên cứu, ứng dụng theo nguyên tắc hiện đại, hiệu quả, thực chất ngay từ các nhu cầu ngắn hạn cũng như trung hạn.
KBNN cho biết đến nay đã đạt được một số kết quả nhất định, về hạ tầng điện toán đám mây, trong giai đoạn phát triển trước năm 2020, KBNN đã có định hướng rõ về ảo hóa hạ tầng, đặc biệt là ảo hóa về máy chủ. Các hệ thống CNTT lớn của KBNN như TABMIS, thanh toán điện tử, quản lý thu, kho dữ liệu, Intranet… đều triển khai theo công nghệ ảo hóa, giúp cho việc sử dụng hạ tầng được hiệu quả, thích ứng kịp thời với những thay đổi, biến động về nhu cầu xử lý nghiệp vụ của cả đội ngũ công chức cũng như khách hàng của kho bạc.
Trong giai đoạn tiếp theo, KBNN sẽ đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ ảo hóa và điện toán đám mây (Cloud Computing) một cách toàn diện đối với trung tâm dữ liệu, hạ tầng máy chủ, mạng, truyền thông, an toàn bảo mật và đặc biệt là bước đầu nghiên cứu ảo hóa, cung cấp các dịch vụ ứng dụng trên nền tảng đám mây.
Hiện tại, KBNN đang nghiên cứu và chuẩn bị thí điểm tích hợp công nghệ ký số từ xa (Remote Signing) trên hệ thống DVCTT, qua đó giúp cho người dùng DVCTT của đơn vị sử dụng ngân sách có thể ký hồ sơ, chứng từ bằng thiết bị di động, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của KBNN.
KBNN sẽ phối hợp với các bên có liên quan tổ chức nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ chuỗi khối (Blockchain) vào hoạt động nghiệp vụ. Qua thử nghiệm, KBNN cũng nhận thấy một số tiềm năng ứng dụng, đồng thời cũng nhận thấy mức độ trưởng thành về công nghệ, từ đó đề ra lộ trình tiếp tục nghiên cứu ứng dụng cho giai đoạn tiếp theo.
Phối hợp với một số đối tác công nghệ nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động nghiệp vụ như tư vấn, trả lời chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kho bạc; lĩnh vực hỗ trợ, vận hành; lĩnh vực quản lý rủi ro. Kết quả nghiên cứu cho thấy tiềm năng ứng dụng cao trong lĩnh vực hỗ trợ, vận hành (trợ lý ảo, thu thập thói quen, tập quán của người dùng để cải thiện chất lượng dịch vụ) cũng như quản lý rủi ro (đánh giá mức độ rủi ro nghiệp vụ dựa trên dữ liệu).
Trong điều kiện gần 100% giao dịch thu, chi NSNN của KBNN đã được thực hiện qua DVCTT cũng như qua ngân hàng, việc nghiên cứu, xây dựng và triển khai hệ thống lưu trữ điện tử, dần thay thế cho lưu trữ giấy, bắt đầu từ lưu trữ hồ sơ, chứng từ chi NSNN trong năm 2023, tiến tới việc số hóa và lưu trữ điện tử theo lộ trình ban hành và hoàn thiện các quy định của pháp luật về lưu trữ điện tử là một bước đi mang lại hiệu quả cũng như đảm bảo tính thận trọng.
KBNN đẩy mạnh liên thông, kết nối dữ liệu với các bộ, ban, ngành cũng như với đơn vị sử dụng ngân sách (khách hàng), góp phần thực hiện mục tiêu: “Đến năm 2025, KBNN vận hành dựa trên dữ liệu số và hoàn thành nền tảng Kho bạc số”. Năm 2022, KBNN đã công bố cổng dữ liệu DVCTT, giúp cho đơn vị sử dụng ngân sách có thể liên thông, trao đổi dữ liệu chi ngân sách trực tiếp từ chương trình phần mềm của đơn vị; kết nối với Cổng DVCQG đối với các khoản thu và hoàn thu phí, lệ phí qua Cổng DVCQG.
Năm 2023-2024, KBNN sẽ đẩy mạnh kết nối, liên thông dữ liệu với các lĩnh vực sau đây: Kết nối với Bộ Công an về cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và nền tảng dịnh danh, xác thực; Dữ liệu định danh khoản thu, do Tổng cục Thuế chủ trì; Kết nối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư dữ liệu về hợp đồng điện tử và kế hoạch vốn trung hạn, kế hoạch vốn hàng năm; Chia sẻ dữ liệu giải ngân đối với các dự án đầu tư công.
Cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin về tài chính - NSNN phù hợp với chuẩn mực kế toán công để phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan có thẩm quyền và hoạt động kiểm tra, giám sát, nâng cao tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính Nhà nước. Phấn đấu đến năm 2030, thời gian lập và trình báo cáo quyết toán NSNN, báo cáo tài chính Nhà nước hàng năm giảm từ 6 - 12 tháng so với năm 2020.
Trước năm 2025, chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng các điều kiện về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ, ứng dụng CNTT để đến năm 2030, cơ bản hoàn thành sắp xếp tổ chức bộ máy theo mô hình Kho bạc 2 cấp và giảm được ít nhất 15% biên chế so với năm 2020.
Nhiệm vụ chủ yếu
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến năm 2030 theo Quyết định số 455/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 với một số mục tiêu cụ thể như sau: Đến năm 2025, KBNN vận hành dựa trên dữ liệu số và hoàn thành nền tảng Kho bạc số; cơ bản toàn bộ các giao dịch thu, chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước được thực hiện theo phương thức điện tử (trừ các giao dịch thuộc phạm vi bí mật Nhà nước); liên thông dữ liệu số của các khâu lập dự toán, phân bổ, chấp hành, kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN; chia sẻ thông tin, dữ liệu thu, chi NSNN theo thời gian thực; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi NSNN theo hướng kiểm soát theo rủi ro. Sau năm 2025, tập trung nghiên cứu, phát triển các dịch vụ theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước; đến năm 2030, hoàn thành xây dựng Kho bạc số.
Để đạt được các mục tiêu trên, KBNN xác định một số nhiệm vụ chủ yếu về cải cách, hiện đại hóa các chức năng quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính Nhà nước, quản lý ngân quỹ Nhà nước, huy động vốn và tổng kế toán Nhà nước của KBNN như sau: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và thực hiện liên thông dữ liệu số về các khoản thu NSNN giữa KBNN và cơ quan thuế, hải quan, các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan trên cơ sở thống nhất cấu trúc thông tin trao đổi theo mã định danh đối với từng khoản thu. Xây dựng cơ sở dữ liệu thu NSNN cho toàn bộ các khoản thu NSNN; triển khai các dịch vụ số về thu NSNN, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc nộp, theo dõi thông tin nộp NSNN trực tuyến, mọi lúc, mọi nơi và giảm thiểu chi phí tổ chức thu.
Đổi mới cơ chế quản lý cam kết chi NSNN; cung cấp đầy đủ thông tin cam kết chi NSNN phục vụ cho việc lập, phân bổ và thực hiện kế hoạch ngân sách trung hạn, hàng năm theo thông lệ quốc tế.
Thống nhất đầu mối, quy trình và số hóa công tác kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, tạo thuận lợi cho các đơn vị sử dụng NSNN; thực hiện chia sẻ và liên thông dữ liệu số trong toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN, đảm bảo hiệu quả, công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng kinh phí NSNN.
Đổi mới phương thức kiểm soát chi NSNN theo hướng chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn với việc tăng cường phân cấp, giao trách nhiệm giải trình cho đơn vị sử dụng ngân sách và tương ứng với mức độ phát triển chức năng kiểm toán nội bộ tại các bộ, ngành, địa phương, đi đối với việc kiểm soát rủi ro, tăng cường thanh tra, kiểm tra các trường hợp có dấu hiệu vi phạm.
Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng các phương thức thanh toán điện tử trong chi trả NSNN cho các đối tượng thụ hưởng, đặc biệt là các phương thức áp dụng đối với các đối tượng thụ hưởng ở vùng sâu, vùng xa hoặc không có tài khoản ngân hàng.
Cung cấp dịch vụ quản lý tài khoản và thu, chi của các quỹ tài chính nhà nước qua tài khoản thanh toán tập trung của KBNN, đảm bảo minh bạch, hiệu quả.
Hoàn thiện mô hình thanh toán tập trung của KBNN phù hợp với lộ trình xây dựng, phát triển hạ tầng thanh toán số quốc gia, đáp ứng yêu cầu thanh toán thông suốt của Chính phủ, đảm bảo nguyên tắc tại mỗi hệ thống ngân hàng, KBNN chỉ có duy nhất một tài khoản và cuối ngày toàn bộ số dư ngân quỹ nhà nước được tập trung về tài khoản của KBNN tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Hoàn thiện phương pháp dự báo luồng tiền và nguồn thông tin đầu vào, từng bước cải thiện chất lượng dự báo và thực hiện dự báo luồng tiền theo ngày.
Từng bước thống nhất nguyên tắc kế toán trong khu vực Nhà nước; trong đó, ưu tiên thống nhất hệ thống tổ hợp tài khoản kế toán, đáp ứng yêu cầu tổng hợp thông tin, báo cáo của các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị. Mở rộng phạm vi tổng kế toán nhà nước theo lộ trình triển khai kế toán dồn tích tại các đơn vị kế toán, đảm bảo bao quát được toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước, tài sản tài chính, tài sản phi tài chính và nghĩa vụ nợ của Nhà nước.
Xây dựng cơ sở dữ liệu kế toán tổng hợp cho toàn bộ khu vực Nhà nước trên cơ sở liên thông và thu thập dữ liệu kế toán tại tất cả các đơn vị kế toán nhà nước, cho phép kết xuất thông tin, báo cáo đa chiều theo từng cấp độ tổng hợp thông tin về NSNN và tài chính nhà nước; đồng thời, góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về tài chính quốc gia.
Hoàn thiện chế độ, quy trình lập, tổng hợp báo cáo thu, chi, quyết toán NSNN, báo cáo tài chính nhà nước trên cơ sở triển khai Hệ thống thông tin Ngân sách và Kế toán Nhà nước số, phù hợp với lộ trình triển khai chuẩn mực kế toán công tại Việt Nam, đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời, công khai, minh bạch của báo cáo và từng bước rút ngắn thời gian lập báo cáo.
Xây dựng hệ thống giám sát nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ KBNN, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra các trường hợp có dấu hiệu vi phạm.
Nhiệm vụ chủ yếu về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chủ động tham gia cách mạng công nghiệp 4.0, từng bước hình thành Kho bạc số: Xây dựng và triển khai kiến trúc công nghệ thông tin của Kho bạc Nhà nước phù hợp với kiến trúc Chính phủ điện tử; trong đó, Hệ thống thông tin Ngân sách và Kế toán Nhà nước số đóng vai trò là hệ thống lõi, có sự kết nối, liên thông và chia sẻ dữ liệu với Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và các hệ thống khác có liên quan.
Số hóa các nghiệp vụ Kho bạc Nhà nước và cung cấp dữ liệu mở về tài chính - NSNN thông qua việc nâng cấp, phát triển Hệ thống thông tin Quản lý Ngân sách và Kho bạc và các hệ thống liên quan thành Hệ thống thông tin Ngân sách và Kế toán Nhà nước số dựa trên công nghệ hiện đại, cho phép cung cấp các dịch vụ số, phục vụ tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị và có khả năng truy cập, khai thác thông tin rộng rãi.
Xây dựng, hoàn thiện các hệ thống ứng dụng CNTT khác, đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa Kho bạc Nhà nước.
Ứng dụng hiệu quả các công nghệ số như điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), di động (Mobility), Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain), ... trong xây dựng, triển khai các ứng dụng, dịch vụ Kho bạc số để tối ưu hóa các quy trình quản lý, quản trị và cung cấp dịch vụ của Kho bạc Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện các hệ thống và giải pháp an toàn bảo mật, dự phòng rủi ro; hệ thống giám sát vận hành và giám sát an toàn bảo mật thông tin, đảm bảo hệ thống công nghệ thông tin luôn được vận hành an toàn, ổn định, thông suốt trong mọi tình huống.
Giải pháp, lộ trình ứng dụng CNTT
Trong giai đoạn 2022 – 2025, KBNN sẽ xây dựng và triển khai ứng dụng liên thông dữ liệu số với các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương và các đơn vị giao dịch để nâng cao chất lượng phục vụ đơn vị sử dụng ngân sách. Xây dựng và triển khai ứng dụng đáp ứng nhu cầu kiểm soát, phê duyệt hồ sơ chi NSNN trên nền tảng di động mọi lúc mọi nơi.
Xây dựng hệ thống giám sát hoạt động nghiệp vụ chuyên ngành KBNN trên nền tảng CNTT. Hiện đại hóa quản lý tài khoản kho bạc theo hướng tập trung tại các Hội sở chính của các hệ thống ngân hàng. Hoàn thiện hệ thống ứng dụng về quản lý trái phiếu và quản lý ngân quỹ. Xây dựng và triển khai hệ thống văn bản điều hành mới, liên thông với trục quốc gia, trục ngành Tài chính và làm việc trên nhiều nền tảng; hoàn thiện hệ thống tài chính và kế toán nội bộ.
Hiện đại hóa sổ cái ngân sách và hoạt động Kho bạc, từ đó cung cấp cho các Bộ, ngành và cơ quan quản lý dữ liệu số về tình hình quỹ NSNN và ngân quỹ Nhà nước. Xây dựng và cung cấp dịch vụ số về phân bổ ngân sách phục vụ các đơn vị dự toán các cấp và cơ quan tài chính các cấp. Xây dựng nền tảng tích hợp ứng dụng và chia sẻ dữ liệu hiện đại.
Trong giai đoạn 2026-2030, KBNN sẽ hiện đại hóa công tác quản lý kiểm soát cam kết chi cho phù hợp với thông lệ quốc tế: kiểm soát cam kết chi trước khi ký hợp đồng trên cơ sở liên thông dữ liệu số giữa hệ thống đấu thầu quốc gia với hệ thống CNTT của KBNN; đơn vị ghi chép cam kết chi và kết nối với KBNN; thực hiện cung cấp dịch vụ trên nền tảng số về TTHC cam kết chi NSNN trong lĩnh vực KBNN; hoàn thiện hệ thống mẫu biểu cam kết chi để cung cấp kịp thời cho công tác quản lý tài chính công.
Số hóa công tác kiểm soát chi NSNN; chia sẻ và liên thông dữ liệu số trong toàn bộ quá trình quản lý chi NSNN từ khâu phân bổ, kiểm soát dự toán trước khi đấu thầu, ký kết và ghi nhận thông tin hợp đồng, tiếp nhận hàng hóa, dịch vụ, tiếp nhận hóa đơn điện tử, đề nghị thanh toán, thực hiện thanh toán, kế toán và quyết toán tại các đơn vị sử dụng NSNN và KBNN.
Hiện đại hóa công tác kiểm soát chi NSNN theo phương thức hậu kiểm, gắn với phân cấp, giao trách nhiệm giải trình cho đơn vị sử dụng ngân sách đi đối với việc kiểm soát rủi ro, tương ứng với mức độ phát triển chức năng kiểm toán nội bộ tại các bộ, ngành, địa phương. Trên cơ sở khung quản lý rủi ro các hoạt động được xây dựng theo thông lệ quốc tế, KBNN hình thành phân hệ giám sát và kiểm soát hoạt động KBNN trên nền tảng số.
Hoàn thiện phân hệ báo cáo tài chính Nhà nước trên cơ sở hoàn thiện cơ chế chính sách nghiệp vụ về báo cáo tài chính Nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện phân hệ tổng hợp quyết toán từ đơn vị dự toán và các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan.
Trên cơ sở kiến trúc tổng thể ngành Tài chính mà hình thành hệ thống lập ngân sách điện tử, KBNN liên thông dữ liệu lập ngân sách của ngành tài chính với hệ thống quản lý ngân sách và kế toán nhà nước số./.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 1 tháng 1/2023)