Tạp chí online

Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050

Cục Công nghiệp CNTT-TT 30/05/2025 10:20

Ngành bán dẫn toàn cầu tăng trưởng mạnh, dự báo đạt 1.000 tỷ USD vào 2030. Việt Nam có vị thế địa chính trị thuận lợi, nguồn nhân lực trẻ, tiềm năng đất hiếm, chính trị ổn định. Thế giới đang đa dạng hóa chuỗi cung ứng tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành điểm “+1”

Tóm tắt:
- Ngành bán dẫn toàn cầu tăng trưởng mạnh, dự báo đạt 1.000 tỷ USD vào 2030. Việt Nam có vị thế địa chính trị
thuận lợi, nguồn nhân lực trẻ, tiềm năng đất hiếm, chính trị ổn định. Thế giới đang đa dạng hóa chuỗi cung ứng tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành điểm “+1”.
- Tư duy chiến lược: Công thức C = SET + 1
l C = Chip bán dẫn
l S = Specialized: Tập trung chip chuyên dụng (AI, IoT) – chi phí thấp, quy trình đơn giản.
l E = Electronics: Phát triển song song công nghiệp điện tử & chuyển đổi số.
l T = Talent: Trở thành trung tâm nhân lực bán dẫn toàn cầu.
l +1: Tham gia đầy đủ các công đoạn chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.
- Mục tiêu đến 2050 có 300 công ty thiết kế, 3 nhà máy chế tạo chip, 20 nhà máy đóng gói & kiểm thử (OSAT); Doanh thu đạt 100 tỷ USD/năm từ bán dẫn; 1.045 tỷ USD/năm từ điện tử; Đào tạo hơn 100.000 kỹ sư/cử nhân ngành bán dẫn.
- Lộ trình 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (2024–2030): Hình thành nền tảng, thu hút FDI, phát triển nhân lực.
+ Giai đoạn 2 (2030–2040): Trở thành trung tâm công nghiệp bán dẫn - điện tử toàn cầu.
+ Giai đoạn 3 (2040–2050): Là nước đi đầu, làm chủ R&D trong bán dẫn.
- Giải pháp triển khai (38 nhiệm vụ chính): 8 nhiệm vụ đột phá:
Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư, xây nhà máy chế tạo chip, trung tâm R&D...; Phát triển chip chuyên dụng: Ưu tiên AI, IoT, chia sẻ hạ tầng nghiên cứu; Phát triển công nghiệp điện tử: Tích hợp chip, ưu đãi sản xuất nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp vươn ra quốc tế; Xây trung tâm dữ liệu, liên kết đào tạo, thu hút nhân tài trong và ngoài nước; Thu hút FDI thông qua chính sách ưu đãi công nghệ cao, hạ tầng chuyên dụng, chính sách “làn xanh”; Xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, sản xuất xanh, xử lý chất thải, thúc đẩy thương hiệu quốc gia.
Chiến lược là bước đi mang tính quyết định, hướng đến đưa Việt Nam thành trung tâm công nghiệp bán dẫn toàn cầu, góp phần đảm bảo năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.

Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn (CNBD) Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2050 tận dụng vị thế địa chính trị và nhân lực trẻ để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Với công thức C=SET+1, Việt Nam tập trung phát triển chip chuyên dụng (AI, IoT), công nghiệp điện tử, nhân lực chất lượng cao, và tham gia mọi công đoạn chuỗi cung ứng. Lộ trình 3 giai đoạn (2024 - 2050) đặt mục tiêu đạt 100 tỷ USD doanh thu bán dẫn, 1.045 tỷ USD điện tử, hình thành 300 công ty thiết kế, 3 nhà máy chế tạo, 20 nhà máy OSAT, và đào tạo hàng chục nghìn kỹ sư. Các giải pháp bao gồm thu hút FDI, nghiên cứu công nghệ, và hợp tác quốc tế, nhằm đưa Việt Nam thành trung tâm bán dẫn toàn cầu, nâng cao vị thế quốc gia.

Bối cảnh phát triển ngành CNBD

Trong những năm vừa qua, ngành CNBD toàn cầu đã ghi nhận mức tăng trưởng vượt bậc. Năm 2024 tổng doanh thu ước đạt 600 tỷ USD, dự kiến đạt đến 01 nghìn tỷ USD vào năm 2030.

ban-dan-1.png

Ngành công nghiệp bán dẫn chủ yếu liên quan đến một số tập đoàn công nghệ lớn, như: NVIDIA, AMD, INTEL, QUALCOM, TSMC,… Các tập đoàn công nghệ này đóng một vai trò quan trọng bao gồm: (i) Nguyên vật liệu; (ii) Thiết bị; (iii) Thiết kế và sản xuất bán dẫn; (iv) Foundry; (v) OSAT; (vi) Phân phối.

Trung Quốc thống trị sản xuất silicon từ nguyên liệu thô, kiểm soát hơn 60% nguồn cung toàn cầu, đồng thời có vai trò lớn trong các công đoạn lắp ráp, đóng gói và kiểm thử (ATP) nhờ chi phí lao động thấp và quy mô sản xuất lớn.

Hoa Kỳ dẫn đầu về chip logic và thiết kế IP, EDA/core, chiếm hơn 50% thị phần toàn cầu trong mỗi lĩnh vực. Hàn Quốc là quốc gia hàng đầu trong sản xuất chip nhớ, kiểm soát hơn 60% sản lượng chip nhớ toàn cầu, đặc biệt là các sản phẩm DRAM và NAND. Thiết bị sản xuất bán dẫn chủ yếu được phân chia giữa Mỹ, Nhật Bản, và châu Âu với các công ty như ASML, Applied Materials và Tokyo Electron chi phối thị trường.

Đài Loan đóng vai trò trung tâm trong chế tạo wafer, đặc biệt thông qua TSMC - nhà sản xuất gia công hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là một cơ sở quan trọng trong lắp ráp, đóng gói và kiểm thử (ATP). Chuỗi cung ứng ATP được phân phối ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Malaysia và Philippines, tạo nên sự kết nối toàn cầu và đáp ứng nhu cầu sản xuất ngày càng cao của ngành CNBD.

Hiện trạng trên dẫn đến những lo ngại về sự phụ thuộc công nghệ, khiến đa dạng hóa chuỗi cung ứng trở thành ưu tiên chiến lược của nhiều nước; các quốc gia lớn như Mỹ, EU và Hàn Quốc tìm cách xây dựng thêm cơ sở sản xuất tại các quốc gia khác để giảm phụ thuộc vào một nguồn cung duy nhất và đảm bảo an toàn cho chuỗi cung ứng bán dẫn.

Sự chuyển dịch này tạo ra vận hội lớn cho Việt Nam tham gia sâu vào ngành CNBD và từng bước phát triển ngành CNBD của riêng mình để góp phần thay đổi thứ hạng của đất nước.

Bối cảnh ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam

Ở Việt Nam, chỉ 4 năm sau ngày thống nhất, vào tháng 9/1979 nhà máy bán dẫn của Việt Nam (Z181) được thành lập, bắt đầu thực hiện các hợp đồng sản xuất, xuất khẩu diode, transistor. Tới cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ trước, do biến động chính trị thế giới, nhà máy đã không còn những đơn hàng sản xuất bán dẫn nữa và việc sản xuất, đóng gói chip vi mạch của Nhà máy Z181 bị dừng lại.

Hiện tại, chuỗi cung ứng bán dẫn Việt Nam hiện ở giai đoạn sơ khởi, tập trung chủ yếu vào hai hoạt động chính: Thiết kế chip bán dẫn (Fabless) và Lắp ráp và kiểm thử chip bán dẫn dẫn chủ yếu thuê ngoài (OPSAT). Lĩnh vực thiết kế bao gồm khoảng 40 doanh nghiệp (DN), với đa số là các doanh nghiệp đến từ Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc như HCL, Hitachi, NVIDIA,Synopsys, Marvell,… và 6 doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có FPT và Viettel.

Trong khâu OSAT, Việt Nam đã và đang thu hút được các tập đoàn đóng gói chip tiềm năng như Intel, Amkor, Hana Micron, với số vốn đầu tư đáng kể. Đến nay, Intel đã đầu tư 1,5 tỷ USD vào Việt Nam; Amkor Technology đã đầu tư 1,6 tỷ USD vào nhà máy tại Bắc Ninh; Hana Micron, một đơn vị OSAT chip nhớ, cũng đã đầu tư 600 triệu USD.

Việt Nam cũng có tiềm năng về trữ lượng đất hiếm, ước đạt khoảng 20 triệu tấn. Việt Nam là 1 trong 16 quốc gia đông dân nhất trên thế giới, quy mô thị trường nội địa tương đối lớn, Việt Nam còn có lợi thế về tỷ lệ dân số trẻ, có năng lực về STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học) có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu nhân lực để phát triển ngành CNBD.

Hiện nay, thế giới đang cơ cấu lại ngành CNBD theo hướng đa dạng hóa nguồn cung với mô hình “X+1”, không chỉ về sản xuất mà ở tất cả các công đoạn của CNBD. Các nước, các tập đoàn công nghệ đã có công nghiệp bán dẫn, hoặc một phần của CNBD, đều muốn có thêm một cơ sở nữa ở nước khác để bảo đảm an toàn.

Việt Nam có lợi thế địa chính trị về CNBD. Nếu lấy Việt Nam làm tâm và quay một vòng tròn 4 - 5 giờ bay thì sẽ bao phủ tới 70% ngành CNBD thế giới. Việt Nam đang ở trung tâm toàn cầu của ngành CNBD. Việt Nam lại là nước ổn định chính trị, nằm trong nhóm các nước có tốc độ phát triển nhanh, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặt ưu tiên phát triển CNBD. Việt Nam có quan hệ chiến lược tốt đẹp với hầu hết các cường quốc công nghiệp bán dẫn nên có thể là một trong ít nước “+1” này và có khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tất cả các công đoạn của công nghiệp bán dẫn.

Công thức phát triển

Quyết định số 1018/QĐ-TTg ngày 21/09/2024 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển CNBD Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 - đặt nền móng, định hướng, tầm nhìn cho sự phát triển nhanh và bền vững của ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam.

Chiến lược đã đề ra con đường phát triển ngành CNBD Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2050 theo công thức:

C = SET + 1

Đây là điểm nổi bật, khác biệt trong tư duy xây dựng Chiến lược của Việt Nam do Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra, cụ thể như sau:

a) Về chữ C là Chip, chip bán dẫn

Công nghiệp bán dẫn, chip bán dẫn đã có mặt trong hầu hết các thiết bị, mọi mặt của đời sống xã hội, đã, đang và sẽ thay đổi, định hình thế giới; ảnh hưởng to lớn tới kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh.

b) Về chữ S là Specialized, chuyên dụng, chip chuyên dụng.

Việt Nam tập trung nghiên cứu, thiết kế, sản xuất sản phẩm bán dẫn chuyên dụng. Việt Nam là nước đi sau, tiếp cận theo hướng không chạy đua về đầu tư và công nghệ mà làm chip chuyên dụng, là loại chip không đòi hỏi công nghệ quá cao, quy trình sản xuất đơn giản, chi phí thấp hơn so với chip đa dụng.

c) Về chữ E là Electronics, điện tử, công nghiệp điện tử.

Việt Nam phát triển công nghiệp bán dẫn cùng công nghiệp điện tử, công nghiệp chuyển đổi số (CĐS), mà trọng tâm là AI - công nghệ cốt lõi của Cách mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam phát triển công nghiệp bán dẫn song hành với một số lĩnh vực công nghiệp đột phá, trong đó đặc biệt là công nghiệp điện tử, CĐS.

d) Về chữ T là Talent, Nhân lực, nhân tài.

Việt Nam phát triển nhân lực là bước đi đầu tiên, là điểm đột phá, là mục tiêu chiến lược, trở thành một trung tâm (hub) về nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Chú trọng phát huy hiệu quả nhân tài, Việt Nam là điểm đến của nhân tài bán dẫn toàn cầu, tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực CNBD.

đ) +1 là vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu

Việt Nam tham gia vào tất cả các công đoạn của chuỗi cung ứng bán dẫn theo cách X + 1.

Đây là điểm khác biệt trong tư duy chiến lược quốc gia của Việt Nam. Hầu hết các nước khác đều xây dựng chiến lược dựa trên cách tiếp cận là tập trung vào một vài công đoạn có thế mạnh. Việt Nam xác định chủ động tham gia vào tất cả các công đoạn trong chuỗi cung ứng theo một lộ trình ba bước, tận dụng xu hướng thế giới đang cơ cấu lại ngành CNBD theo phương châm X + 1, trong đó Việt Nam nỗ lực để trở thành điểm “+1” trong chuỗi cung ứng này, thu hút các DN bán dẫn hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, tạo sự an toàn cho chuỗi cung ứng bán dẫn của thế giới.

Lộ trình phát triển

Theo Chiến lược, Việt Nam định hướng phát triển công nghiệp bán dẫn đến năm 2050 theo lộ trình 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (2024 - 2030): thu hút FDI có chọn lọc, phát triển trở thành một trong các trung tâm về nhân lực bán dẫn toàn cầu, hình thành năng lực cơ bản trong tất cả các công đoạn từ nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, đóng gói và kiểm thử của CNBD.

Giai đoạn 2 (2030 - 2040): trở thành một trong các trung tâm về CNBD, điện tử toàn cầu; phát triển công nghiệp bán dẫn, điện tử kết hợp giữa tự cường và FDI.

Giai đoạn 3 (2040 - 2050): trở thành quốc gia thuộc nhóm các quốc gia đi đầu thế giới về CNBD, điện tử; làm chủ nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử.

ban-dan-2.png

Mục tiêu phát triển

Đặt mục tiêu phát triển CNBD

Giai đoạn 1: Hình thành 100 DN thiết kế, 01 nhà máy chế tạo chip bán dẫn quy mô nhỏ, công nghệ cao và 10 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn.

Giai đoạn 2: Hình thành 200 DN thiết kế, 2 nhà máy chế tạo chip bán dẫn, 15 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn.

Giai đoạn 3: Hình thành 300 DN thiết kế, 3 nhà máy chế tạo chip bán dẫn, 20 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn.

Đặt mục tiêu phát triển doanh thu

Giai đoạn 1: Quy mô doanh thu CNBD tại Việt Nam đạt trên 25 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 10 - 15%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 225 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 10 - 15%.

Giai đoạn 2: Quy mô doanh thu CNBD tại Việt Nam đạt trên 50 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 15 - 20%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 485 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 15 - 20%.

Giai đoạn 3: Quy mô doanh thu CNBD tại Việt Nam đạt trên 100 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 20 - 25%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 1.045 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt từ 20 - 25%.

Đặt mục tiêu phát triển nhân lực

Giai đoạn 1: Quy mô nhân lực ngành CNBD Việt Nam đạt trên 50.000 kỹ sư, cử nhân.

Giai đoạn 2: Quy mô nhân lực ngành CNBD Việt Nam đạt trên 100.000 kỹ sư, cử nhân.

Giai đoạn 3: Quy mô nhân lực ngành CNBD Việt Nam có cơ cấu, số lượng phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển.

Những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể

Chiến lược đề ra 38 nhiệm vụ cụ thể được giao cho các Bộ, ngành, địa phương, DN, cơ sở đào tạo, nghiên cứu liên quan để triển khai đáp ứng các mục tiêu đề ra, cụ thể như sau:

- 8 nhiệm vụ đột phá: Nghiên cứu, thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư để giảm thiểu ảnh hưởng của thuế thu nhập tối thiểu toàn cầu; phát triển nguồn nhân lực ngành CNBD đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; thành lập/hỗ trợ thành lập một số trung tâm, viện nghiên cứu về CNBD; nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, sản phẩm chip chuyên dụng đột phá thế hệ mới đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm huy động nguồn lực cho phát triển ngành CNBD, điện tử Việt Nam; phát triển ngành CNBD tại một số địa phương, DN trọng điểm đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; đầu tư xây dựng cơ chế và 01 nhà máy chế tạo chip bán dẫn quy mô nhỏ, công nghệ cao phục vụ nhu cầu nghiên cứu, thiết kế, sản xuất chip bán dẫn.

- Phát triển chip chuyên dụng - 5 nhiệm vụ, giải pháp: Tập trung vào nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, sản phẩm chip chuyên dụng (AI, IoT) và xây dựng công cụ dùng chung cho nghiên cứu, phát triển công nghệ bán dẫn; Phát triển hệ sinh thái CNBD trong nước và kết nối với các đối tác quốc tế, thúc đẩy sử dụng chip trong các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp tự động hóa, điện tử tiêu dùng; Xây dựng cơ chế hỗ trợ cùng chia sẻ, dùng chung một số cơ sở hạ tầng phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu; Hỗ trợ các DN sản xuất chip theo mô hình tập trung để tiết kiệm chi phí và khuyến khích nghiên cứu.

- Phát triển công nghiệp điện tử - 6 nhiệm vụ, giải pháp: Tập trung vào nghiên cứu và phát triển các thiết bị điện tử thế hệ mới tích hợp chip chuyên dụng, chip AI; Hỗ trợ các tập đoàn, DN sản xuất thiết bị điện tử phát triển ra quốc tế, đồng thời thúc đẩy liên kết với các DN nước ngoài; Xây dựng cơ chế ưu đãi, khuyến khích các DN công nghệ số lớn mở rộng sang đầu tư, sản xuất thiết bị điện tử thế hệ mới; Ưu tiên ngân sách nhà nước mua sắm thiết bị điện tử nội địa để thúc đẩy thị trường; Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh liên doanh, liên kết với DN nước ngoài phục vụ sản xuất thiết bị điện tử dân dụng, chuyên dụng thế hệ mới; Phát triển hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ và thúc đẩy DN bán dẫn, điện tử Việt tham gia chương trình phát triển thương hiệu quốc gia.

- Phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài - 7 nhiệm vụ, giải pháp:

Phát triển các trung tâm dữ liệu, các hệ thống siêu máy tính phục vụ hoạt động nghiên cứu, đào tạo, phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử và các công nghệ số mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, ...;

Hỗ trợ kinh phí đào tạo, nghiên cứu và phát triển cơ sở hạ tầng đào tạo;

Xây dựng cơ chế thu hút nhân tài, kết nối chuyên gia quốc tế và Việt Nam, tạo mạng lưới đổi mới sáng tạo (ĐMST);

Kết nối chuyên gia đầu ngành trong nước và quốc tế;

Đào tạo lại (Reskill), đào tạo nâng cao (Upskill) từ nguồn nhân lực sẵn có;

Thúc đẩy ký kết các cam kết về nhu cầu nhân lực giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp bán dẫn, DN điện tử trong và ngoài nước;

Hợp tác quốc gia về cung cấp nhân lực về bán dẫn, điện tử với một số quốc gia đang thiếu hụt nhân lực.

- Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bán dẫn - 7 nhiệm vụ, giải pháp: Xây dựng cơ chế ưu đãi cho các dự án đầu tư công nghệ cao, tạo điều kiện cho DN nhà nước và tư nhân liên doanh với các đối tác nước ngoài; Xây dựng chính sách ưu tiên các DN nước ngoài trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử có hoạt động nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam; Xây dựng cơ chế để tạo điều kiện thuận lợi để DN nhà nước, DN tư nhân, DN lớn, DN nhỏ và vừa liên doanh với DN nước ngoài trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử; Thiết lập cơ chế làn xanh cho các DNxuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, nguyên liệu, vật tư, linh kiện liên quan đến CNBD; Đầu tư phát triển hạ tầng số, hạ tầng điện, hạ tầng nước đáp ứng yêu cầu của các nhà máy sản xuất bán dẫn, thiết bị điện tử tại các khu vực đã được quy hoạch.

- Và 5 nhiệm vụ và giải pháp khác: Thành lập Tổ Chuyên gia tư vấn phát triển ngành bán dẫn; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển từ các quỹ quốc gia; Bổ sung hạng mục chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, chế tạo, sản xuất sản phẩm bán dẫn, thiết bị điện tử dân dụng, chuyên dụng thế hệ mới của Việt Nam từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, xây dựng quy định về xử lý chất thải và sản xuất xanh trong lĩnh vực bán dẫn.

Kết luận

Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển CNBD Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 là một bước đi chiến lược mang tính quyết định trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển dịch mạnh mẽ của chuỗi cung ứng bán dẫn hiện nay. Bán dẫn không chỉ là nền tảng của các công nghệ tương lai như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT) và xe tự hành, mà còn là yếu tố cốt lõi để đảm bảo năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.

Chiến lược này không chỉ đặt mục tiêu phát triển ngành bán dẫn thành một ngành kinh tế chủ lực, mà còn tạo điều kiện để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển hệ sinh thái công nghệ. Đây là cơ hội để Việt Nam không chỉ tận dụng các tiềm năng vốn có mà còn định hình vị trí quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

(Bài viết đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 4 tháng 4 năm 2025)

Bài liên quan
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO