CĐS, công nghệ số, nền kinh tế số, kỷ nguyên số là một quá trình nhiều thập kỷ, là xu thế toàn cầu, là quá trình không thể đảo ngược. Với sự xuất hiện của Cách mạng công nghiệp 4.0, cùng với tác động của đại dịch COVID-19, thế giới đang ở điểm đột phá của quá trình CĐS. Đây là cơ hội cho Việt Nam thực hiện khát vọng hùng cường, thịnh vượng.
Vấn đề của Việt Nam là sẽ chọn cách đi như thế nào để bứt phá vượt lên và thay đổi thứ hạng quốc gia trong Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này? Đây thực sự là một bài toán khó. CĐS, kinh tế số có phải là lời giải thông minh cho bài toán khó của Việt Nam hay không? Đặc biệt, trong tiến trình CĐS thì nhân tố cốt lõi là công nghệ hay là thể chế?
CĐS và bài toán thể chế
"Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của các cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số"
(Cẩm nang Chuyển đổi số - Bộ TTTT 2020)
CĐS là cuộc cách mạng của toàn dân. Chuyển đổi số chỉ thực sự thành công khi mỗi một người dân tích cực tham gia và thụ hưởng các lợi ích mà CĐS mang lại. CĐS mang trong mình sứ mệnh lớn lao, đó là phổ cập và cá nhân hóa các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, ...) tới từng người dân để phục vụ người dân tốt hơn. CĐS tạo ra cơ hội cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn rộng khắp “không ai bị bỏ lại phía sau”.
CĐS quốc gia tiếp cận với ba trụ cột là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Chính phủ số
Chính phủ số là Chính phủ CĐS, đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi quy trình làm việc, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ, nhanh chóng cung cấp dịch vụ công mới. Chính phủ số là Chính phủ có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.
Về bản chất, Chính phủ điện tử (CPĐT) là Chính phủ tin học hóa quy trình đã có, cung cấp trực tuyến các dịch vụ hành chính công đã có. Chính phủ số là Chính phủ CĐS, đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi quy trình làm việc, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ, nhanh chóng cung cấp dịch vụ công mới. Một trong những thước đo chính của CPĐT là số lượng dịch vụ hành chính công trực tuyến. Còn một trong những thước đo chính của Chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm đi, số lượng dịch vụ công mới, mang tính sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên, nhờ công nghệ số và dữ liệu [1]. Chính phủ số là một bước phát triển cao hơn của CPĐT. Chính phủ số mang đến cho người dân các dịch vụ công bằng, toàn diện, bền vững, mọi lúc mọi nơi, không ai bị bỏ lại phía sau [2].
Đồng thời, một Chính phủ số minh bạch cũng giải quyết tình trạng tham nhũng, quan liêu, độc quyền trong khu vực công. Chính phủ số có sứ mệnh dẫn dắt CĐS quốc gia, do vậy phải đi trước, đi đầu và tạo không gian phát triển cho kinh tế số, xã hội số.
Kinh tế số
Tương tự như khái niệm “CĐS”, cho đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau và chưa có khái niệm nào được chấp nhận phổ biến về kinh tế số (hay kinh tế kỹ thuật số). Có rất nhiều khái niệm khác nhau và chưa có khái niệm nào được chấp nhận chính thức về kinh tế số (hay kinh tế kỹ thuật số), nhưng theo cách hiểu phổ biến nhất mà phần lớn các quốc gia và tổ chức quốc tế thống nhất thì kinh tế số là nền kinh tế dựa trên công nghệ số và nền tảng số, với các hoạt động kinh tế về và bằng công nghệ số và nền tảng số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành trên Internet.
Kinh tế số bao gồm 3 cấu phần: (1) Kinh tế số thuần công nghệ thông tin và truyền thông (Kinh tế số ICT): là lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông; (2) Kinh tế số Internet/nền tảng (Kinh tế số Internet): gồm các hoạt động kinh tế dựa hoàn toàn vào mạng Internet như dịch vụ số, kinh doanh số, kinh tế nền tảng, kinh tế dữ liệu, kinh tế thuật toán, kinh tế chia sẻ, kinh tế việc làm tự do (Gig), và các hình thức kinh doanh trên Internet khác; (3) Kinh tế số ngành/lĩnh vực (Kinh tế số ngành): là các hoạt động kinh tế dựa trên việc chuyển đổi số ngành, lĩnh vực, áp dụng các công nghệ số, nền tảng số vào các ngành, lĩnh vực truyền thống nhằm tăng năng suất lao động, tối ưu hóa vận hành, tạo giá trị kinh tế mới, mô hình kinh doanh mới, gồm các hoạt động như: quản trị điện tử, thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số, nông nghiệp thông minh, sản xuất thông minh, du lịch thông minh v.v..;
Trong 3 cấu phần của kinh tế số nói trên, 2 cấu phần kinh tế số ICT và kinh tế số Internet/nền tảng thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của ngành TT&TT. Cấu phần kinh tế số ngành/lĩnh vực thuộc trách nhiệm của tất cả các bộ quản lý chuyên ngành, Bộ TT&TT đóng vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, tạo dựng hạ tầng, nền tảng cho các lĩnh vực này để phát triển.
Xã hội số
Xã hội số là xã hội hiện đại được áp dụng và tích hợp công nghệ số vào mọi mặt đời sống, làm thay đổi thói quen học tập, làm việc, giao tiếp, mua sắm, giải trí,... của tất cả mọi người dân, hình thành nên công dân số và văn hóa số. Xã hội số giúp xóa nhòa khoảng cách, mọi người dân đều bình đẳng trong tiếp cận thông tin số và dịch vụ số (y tế từ xa, giáo dục trực tuyến, dịch vụ công số, giao dịch số...), nâng cao chất lượng cuộc sống, an toàn và hạnh phúc nhờ áp dụng công nghệ số.
Các tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ phát triển xã hội số gồm: (1) Danh tính số và hệ thống định danh, xác thực điện tử; (2) Khả năng kết nối mạng; (3) Phương tiện số của người dân; (4) Mức độ sử dụng dịch vụ trên Internet của người dân; (5) Mức độ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân; (6) Kỹ năng số, nhân lực số và giáo dục điện tử; (7) Mức độ phổ cập của y tế điện tử, dịch vụ tư vấn sức khỏe, khám chữa bệnh từ xa.
Xây dựng xã hội số lấy người dân làm trung tâm, doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo, chính phủ đóng vai trò bệ đỡ. Dựa trên ứng dụng dữ liệu và công nghệ số để xây dựng một xã hội số đem lại tiện lợi, hạnh phúc, đa dạng hóa cho người dân, nâng cao hiệu quả của Chính phủ và doanh nghiệp.
Trong 7 tiêu chí đặc trưng cơ bản của xã hội số nêu trên, có 5 tiêu chí đầu thuộc trách nhiệm quản lý của ngành TT&TT. Hai tiêu chí cuối trách nhiệm chính thuộc về các Bộ Giáo dục - Đào tạo, Lao động - Thương binh - Xã hội, và Y tế, Bộ TT&TT đóng vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, tạo dựng hạ tầng, nền tảng.
Kinh tế số và xã hội số có mối liên kết chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau, là 2 mặt không tách rời của quá trình phát triển, quá trình CĐS quốc gia, CĐS các ngành, lĩnh vực, địa phương.
Triển khai CĐS quốc tế và trong nước
Quốc tế
Thế giới ngày nay phát triển với tốc độ CĐS nhanh chưa từng có. Mỗi quốc gia, tổ chức hay cá nhân đều phải nỗ lực chuyển đổi, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức nếu không muốn bị bỏ lại phía sau. Cùng với cuộc Cách mạng CĐS, tiến trình phát triển CPĐT cũng chuyển mạnh sang Chính phủ số, với việc chuyển đổi hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức công quyền lên môi trường số một cách toàn diện, tổng thể.
Chuyển đổi từ CPĐT thành Chính phủ số là sự chuyển đổi có tính căn bản. Từ dịch vụ công trực tuyến thành dịch vụ số. Từ người dẫn dắt là giám đốc công nghệ thông tin thành người đứng đầu tổ chức. Khái niệm hệ thống công nghệ thông tin được thay bằng nền tảng số. Từ tiếp cận theo hướng dịch vụ trở thành tiếp cận hướng dữ liệu. Từ công nghệ Web và PC thành công nghệ 4.0 là Mobile, Cloud, AI, IoT. Từ sự tham gia chỉ của cơ quan nhà nước thành sự tham gia của cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Từ cải cách thủ tục hành chính thành thay đổi mô hình quản trị. Từ đo lường số lượng dịch vụ công lên online thành số dịch vụ công mới. Thách thức của chính phủ điện tử là liên thông, tích hợp, thì thách thức của chính phủ số là quản lý sự thay đổi.
Nền kinh tế số cũng đang ngày càng khẳng định vai trò là một động lực cốt lõi của tăng trưởng toàn cầu. Không còn giới hạn trong một nhóm các quốc gia “công nghệ cao” ưu tú, kinh tế số đang được thúc đẩy trên khắp thế giới, cả ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, và đang mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nhiều doanh nghiệp, quốc gia. Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách các nước đang cố gắng nghiên cứu, tìm cách tốt nhất để tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng CĐS nhằm mục đích tăng tốc phát triển kinh tế số đất nước mình, đem lại lợi ích tốt nhất cho công dân của họ. Nhiều nước đang nỗ lực chuyển đổi các cấu trúc kinh tế truyền thống, đẩy mạnh kinh tế số ICT, kinh tế số Internet/nền tảng, thúc đẩy CĐS các ngành, lĩnh vực và hỗ trợ các doanh nghiệp CĐS nhằm đưa đất nước thành cường quốc kỹ thuật số nhất quán, năng động, sáng tạo và tăng trưởng mạnh mẽ.
Song hành cùng với kinh tế số, thế giới cũng đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của xã hội số. Theo Báo cáo về xã hội số của Hiệp hội Viễn thông quốc tế GSMA, trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia đều có những bước phát triển đáng kể về xã hội số. Đặc biệt một số nước đang phát triển đã có mức tăng các điểm chỉ số nhanh hơn so với các nước tiên tiến, tuy khoảng cách vẫn còn khá lớn. Những nước nằm trong top đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về xã hội số gồm Hàn Quốc, Singapore, Úc và Nhật Bản.
Trước làn sóng mạnh mẽ của Cách mạng CĐS, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, hầu hết các nước trên thế giới đều đang nỗ lực hoàn thiện thể chế, pháp luật, ban hành các chiến lược phát triển lĩnh vực rất tiềm năng này. Nhận thức rõ nội hàm kinh tế số và xã hội số gắn liền với vai trò, vị trí và sự phát triển của ngành TT&TT, nhiều nước đã nỗ lực chuyển đổi, nâng tầm hệ thống quản lý ngành này, thay đổi tên gọi và cơ cấu tổ chức của Bộ quản lý chuyên ngành về TT&TT thành Bộ mới với cụm từ “Digital” nổi bật trong tên Bộ để thực thi quản lý nhà nước về CĐS, kinh tế số. Điển hình như Thái Lan đổi tên Bộ TT&TT thành Bộ Kinh tế và Xã hội số (Ministry of Digital Economy and Society), Áo đổi tên thành Bộ CĐS và Kinh tế số (Ministry for Digital and Economic Affairs), Nga đổi tên thành Bộ Truyền thông và phát triển Công nghệ số (Ministry for Digital Development, Communications and Mass Media), v.v...
Tại Việt Nam
Trong những năm qua, hoạt động ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ điện tử luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của quốc gia. Các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực triển khai CPĐT và đã đem lại những kết quả tích cực. Chỉ số phát triển CPĐT của Việt Nam theo đánh giá của Liên Hợp Quốc từ năm 2014 đến năm 2020 tăng 13 bậc, từ xếp hạng thứ 99 lên xếp hạng thứ 86 trong 193 quốc gia.
Tuy nhiên, phát triển CPĐT nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế lớn như tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 và tỷ lệ hồ sơ điện tử còn thấp; các cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống nền tảng chính phủ điện tử chậm được triển khai; an toàn, an ninh mạng còn nhiều thách thức; việc chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, các hệ thống thông tin phân mảnh, trùng lặp, cát cứ dữ liệu.
Kinh tế số của Việt Nam theo đánh giá của các tổ chức quốc tế đã có những bước phát triển nhanh, nhiều triển vọng so với khu vực và thế giới. Mặc dù chưa có số liệu chính thức, đầy đủ về kinh tế số Việt Nam nhưng qua tổng hợp sơ bộ từ các báo cáo trong và ngoài nước, có thể ước tính kinh tế số Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 163 tỷ USD, chiếm khoảng 8,2% GDP cả nước, trong đó cấu phần kinh tế số ICT thông đạt 126 tỷ USD, chiếm 5,5% GDP, kinh tế số Internet/nền tảng đạt 14 tỷ USD, chiếm 1% GDP, và kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 23 tỷ USD, chiếm 1,7% GDP.
Về Xã hội số, theo Báo cáo của Hiệp hội Viễn thông quốc tế GSMA, Việt Nam được đánh giá là nước phát triển nhanh, với các chỉ số xã hội số liên tục được cải thiện với tốc độ cao, tuy nhiên, chúng ta vẫn đứng sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia trong khu vực Đông Nam Á.
Kinh tế số, xã hội số Việt Nam thời gian qua phát triển tự phát nhưng tăng trưởng khá nhanh, là do hạ tầng viễn thông - CNTT khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao; là do người Việt Nam ham mê công nghệ, thích sử dụng công nghệ vào loại cao nhất trong khu vực; là do dân số Việt Nam trẻ, được đào tạo tốt, học toán tốt và lao động chăm chỉ; là do tính cách người Việt Nam thích ứng nhanh với sự thay đổi. Đây là lợi thế Việt Nam khi CĐS, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Chúng ta cũng đang có những cơ hội rất lớn để phát triển kinh tế số. Việt Nam là thị trường lớn, nhiều tiềm năng cho các mô hình kinh doanh mới, với dân số đông, đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, có lực lượng lao động số lớn, có số người dùng Internet và điện thoại thông minh lớn và đang tăng nhanh sẽ tạo nên những thị trường hấp dẫn cho kinh tế số. Chúng ta cũng nằm tại trung tâm của Đông Nam Á, của châu Á, khu vực được đánh giá sẽ là trung tâm phát triển công nghệ số và kinh tế số toàn cầu. Việt Nam đã kiềm chế thành công COVID-19, và hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội này để bứt phá vươn lên về kinh tế số. Chúng ta cũng đang nhận được sự quan tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ cho chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, thể hiện qua rất nhiều văn bản quan trọng được ban hành thời gian qua.
Tuy nhiên, kinh tế số, xã hội số Việt Nam cũng đang đối mặt với những tồn tại, hạn chế và thách thức lớn, điển hình như: Hệ thống thể chế, pháp luật chưa tạo thuận lợi cho cho CĐS, phát triển kinh tế số, xã hội số. Việc thực thi quản lý nhà nước, xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế số, xã hội số còn bất cập. Kỹ năng số và nguồn nhân lực số chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số. Năng lực CĐS của doanh nghiệp còn yếu; lực lượng doanh nghiệp nền tảng số đông nhưng chưa mạnh, các nền tảng số Make in Viet Nam còn non trẻ lại bị cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài.
Thể chế và quy định pháp luật cho chuyển đổi số và các hoạt động kinh tế số của chúng ta chậm được hoàn thiện. Chúng ta cũng chưa ban hành chiến lược tổng thể của quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số. Chúng ta chưa có hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới. Hệ thống văn bản pháp luật ban hành nhiều nhưng thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với yêu cầu CĐS, phát triển kinh tế số. Còn thiếu các quy định về giao dịch dữ liệu, bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư, cũng như tạo lập niềm tin trên không gian số; thiếu quy định về quyền cá nhân, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo; các quy định về danh tính số, định danh và xác thực điện tử cho người dân còn chậm được ban hành.
Các cơ hội và thách thức trên đặt ra yêu cầu cấp thiết cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật, ban hành chiến lược quốc gia, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước để hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý phù hợp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ CĐS, phát triển kinh tế số và xã hội số Việt Nam.
Bàn luận về xây dựng thể chế và chính sách phát triển
Cách nhanh nhất để đẩy nhanh nền kinh tế số là sử dụng công nghệ số để thay đổi cách chúng ta đang sản xuất, đang làm việc. Công nghệ số sẽ sinh ra những mô hình kinh doanh mới, thách thức hoặc thay thế mô hình kinh doanh cũ. Thí dụ, Uber đang thách thức taxi, Fintech thách thức ngân hàng truyền thống. Mobile Money cho phép tài khoản viễn thông di động thanh toán mua hàng hóa sẽ giải quyết bài toán thanh toán không dùng tiền mặt đến 100% người dân, nhưng lại thách thức ngân hàng. Vấn đề là chúng ta có dám chấp nhận các mô hình kinh doanh mới này hay không. Nếu dám chấp nhận nhưng lại là người sau cùng chấp nhận thì cũng không có giá trị nhiều.
Cách tiếp cận chính sách theo cách truyền thống thì thường là: quản được thì mở, quản đến đâu thì mở đến đó, không quản được thì đóng. Cách tiếp cận mới mà nhiều nước áp dụng, gọi là cách tiếp cận Sandbox: cái gì không biết quản thế nào thì không quản, cho tự phát triển, nhưng trong một không gian nhất định, trong một thời gian nhất định, để các vấn đề được bộc lộ một cách rõ ràng. Sau đó mới hình thành chính sách, hình thành qui định để quản lý. Đây là một trong những cách tiếp cận chính sách phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, phù hợp để đón nhận các mô hình kinh doanh mới, để đón nhận các sáng tạo đổi mới.
Để hoàn thiện thể chế, trước hết chúng ta cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế số, xã hội số, bao gồm: sửa đổi Luật Giao dịch điện tử theo hướng bổ sung các nội dung mới về kinh tế số phù hợp với yêu cầu phát triển của lĩnh vực; xây dựng Nghị định của Chính phủ về quản lý kinh tế nền tảng và kinh doanh trên mạng Internet; hoàn thiện và ban hành Nghị định về định danh và xác thực điện tử; hoàn thiện và trình phê duyệt Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; ban hành các văn bản quy định về các quy tắc ứng xử trên môi trường số cũng như các quy định nhằm tạo lập niềm tin, đánh giá tín nhiệm trên không gian mạng.
Chúng ta cũng cần nhanh chóng xây dựng, ban hành các chiến lược, chương trình quốc gia về phát triển kinh tế số, xã hội số, bao gồm: Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số; Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam; Chiến lược dữ liệu số quốc gia; Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp; và Chương trình đào tạo kỹ năng số và phát triển nguồn nhân lực số quốc gia. Bên cạnh đó, cần khẩn trương xây dựng, ban hành các chiến lược, chương trình tạo dựng hạ tầng, nền tảng số để hỗ trợ phát triển như: Chiến lược Chính phủ số; Chiến lược phát triển Hạ tầng số quốc gia; Chiến lược phát triển Bưu chính; Chiến lược An toàn không gian mạng quốc gia.
Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật và ban hành chính sách, chiến lược phải trên cơ sở tư duy chuyển đổi số, tránh việc vẫn dùng tư duy cũ trong quản lý kinh tế số, nâng cao mức độ sẵn sàng chấp nhận cái mới, tăng cường các “sandbox” cho kinh tế số. Các quy định pháp luật cần tạo cơ sở thuận lợi cho các mô hình kinh doanh mới, các hoạt động kinh tế mới như kinh tế nền tảng, kinh tế dữ liệu, kinh tế Internet, hay các mô hình kinh tế số ngành/lĩnh vực. Các quy định pháp luật cũng cần tạo cơ sở để có thể giám sát, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận thuế, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, mua bán, sát nhập độc hại của các nền tảng số. Cần có cơ chế để giám sát được các nền tảng số lớn, xuyên biên giới, đồng thời thiết lập được đặc khu kinh tế số trên không gian mạng nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh tế số nhỏ và vừa khởi nghiệp phát triển.
Hệ thống quy định pháp luật phải tạo được môi trường pháp lý thuận lợi nhằm tạo ra thị trường ban đầu để phát triển các doanh nghiệp công nghiệp số. Hệ thống quy định pháp luật cũng phải tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các dịch vụ số, công nghệ số một cách thuận lợi nhất, dễ dàng nhất với chi phí thấp hơn chi phí trực tiếp. Hệ thống quy định pháp luật phải đảm bảo tính công bằng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, công bằng giữa các thành phần kinh tế. Các chính sách pháp luật liên quan đến kinh tế số, công nghệ số phải có tính cạnh tranh toàn cầu để người Việt Nam không phải ra nước ngoài khởi nghiệp công nghệ số, mà còn để người nước ngoài, tài năng toàn cầu về Việt Nam phát triển công nghệ.
Hiện nay, hành lang pháp lý ở cấp độ Luật có Luật Giao dịch điện tử được ban hành năm 2005 (gọi tắt là Luật GDĐT 2005). Quá trình tổng kết 15 năm thực hiện Luật GDĐT 2005 đã cho thấy đến thời điểm hiện nay, Luật GDĐT rất cần thiết phải sửa đổi vì Luật GDĐT 2005 là Luật khung, được ban hành sớm, sau khi có Luật mẫu của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL). Nội dung cơ bản bám theo Luật mẫu của Liên Hợp Quốc nên còn mang tính khung và mang tính nguyên tắc chung. Luật mẫu của Liên Hợp Quốc có xu hướng viết cho các nước đã phát triển, nơi có quy định và hệ thống công nghệ thông tin khá khác biệt với Việt Nam. Vì vậy, khi áp dụng vào Việt Nam thì nảy sinh một số bất cập khó thực thi trong thực tế, đặc biệt là đối với vấn đề đảm bảo giá trị pháp lý của giao dịch điện tử. Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, đặc biệt do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhu cầu giao dịch điện tử đã bùng phát mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực hành chính, dân sự, kinh tế và xã hội, môi trường và phương thức giao dịch cũng có nhiều thay đổi với sự xuất hiện ngày càng nhiều các nền tảng số làm trung gian cho các giao dịch điện tử trực tuyến, đòi hỏi phải có khung pháp lý phù hợp đáp ứng nhu cầu thực tế, đảm bảo thể chế pháp luật phải theo kịp sự phát triển.
Căn cứ Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó, chủ trương hoàn thiện thể chế tạo điều kiện cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình CĐS quốc gia chỉ rõ cần phải: “Hoàn thiện pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng; đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng,... Hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu”;
Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có đưa ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng CĐS quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”;
Căn cứ Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52- NQ/TW, trong đó có giao nhiệm vụ cho Bộ TT&TT: “Nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về GDĐT... Căn cứ Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong đó giao Bộ TT&TT “Xây dựng Luật Giao dịch điện tử và kinh tế số (sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử năm 2005)”.
Thực hiện các Nghị quyết nêu trên, Bộ TT&TT được giao thực hiện xây dựng và trình Quốc hội Luật Giao dịch điện tử sửa đổi, thay thế Luật GDĐT 2005. Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng dự án Luật GDĐT sửa đổi. Dự án xây dựng Luật GDĐT sửa đổi của Bộ TT&TT nhằm xây dựng một Luật thống nhất, làm căn cứ pháp lý để thực hiện chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực, thúc đẩy CĐS quốc gia nhưng các chuyên ngành thuộc lĩnh vực của bộ, ngành nào thì bộ, ngành đó sẽ xử lý. Luật GDĐT sửa đổi cũng hướng đến mục tiêu khẳng định giá trị pháp lý cho GDĐT, công nhận giao dịch điện tử có giá trị pháp lý giống như giao dịch truyền thống trong môi trường thực. Quy định cụ thể về các điều kiện bảo đảm giá trị pháp lý của GDĐT và ưu tiên, khuyến khích thực hiện giao dịch điện tử bằng việc đưa ra các quy định, chính sách thực hiện giao dịch điện tử rẻ hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn, an toàn hơn giao dịch truyền thống. Luật GDĐT sửa đổi được ban hành thực sự là một bước hoàn thiện thể chế quan trọng trong tiến trình CĐS của Việt Nam, là hành lang pháp lý cho việc chuyển đổi tất cả các hoạt động thuộc tất cả các lĩnh vực từ môi trường thực lên trên môi trường số một cách an toàn và hiệu quả.
Nói tóm lại, CĐS là một cuộc cách mạng về thể chế và chính sách nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ. Việc hoàn thiện các hành lang pháp lý sẽ là “cú hích” trọng yếu thúc đẩy tiến trình CĐS quốc gia, đưa Việt Nam sớm trở thành một trong những nước tiên phong và thành công trong quá trình CĐS và phát triển bền vững.
[1]. Theo Cẩm nang Chuyển đổi số, tlđd, tr.80
[2]. Bộ TT&TT, Báo cáo số 26/BC-BTTTT ngày 28/4/2021 Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình phát triển và xây dựng Chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số.
Tài liệu tham khảo
1. Natalja Verina, Jelena Titko, Digital Transformation: Conceptual Framework, International Scientific Conference: Contemporary Issues In Business, Management And Economics Engineerings' 2019, 10/5/2019.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông, Cẩm nang Chuyển đổi số, XB 2020.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo số 26/BC-BTTTT ngày 28/4/2021 Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình phát triển và xây dựng Chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số.
(Bài viết đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 10 tháng 10/2021)