Một trong những nhiệm vụ những tháng cuối năm 2023 phải thu hút DN, nhà đầu tư nước ngoài
Trong thông báo số 332/TB-VPCP ngày 17/8/2023 được Văn phòng Chính phủ ban hành kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về nhiệm vụ, giải pháp lớn ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong những tháng cuối năm 2023 đã giao cho các Bộ ngành có liên quan chỉ đạo xây dựng, triển khai các chính sách ưu đãi đủ mạnh để thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài.
Phải có chính sách đủ mạnh để thu hút nhà đầu tư nước ngoài
Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện tốt nhiệm vụ điều phối quản lý kinh tế vĩ mô và tiếp tục rà soát, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách ưu đãi đủ mạnh để thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực, trình độ khoa học công nghệ; tăng cường kiểm tra, đôn đốc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và công tác quy hoạch, bảo đảm chất lượng, tiến độ.
Bộ Công Thương tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, thương mại; khẩn trương hoàn thiện dự thảo cơ chế thí điểm mua bán điện trực tiếp, cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà; kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch Điện VIII. Khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 95/2021/NĐ-CP và Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, trình Chính phủ trước ngày 19/8/2023; giao đồng chí Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chủ trì họp thống nhất sửa đổi ngay các Nghị định này.
Thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của nước ta trong những tháng đầu năm 2023 gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới cũng như của Việt Nam: Xung đột chính trị tại một số quốc gia trên thế giới ngày càng gay gắt; áp lực giá cả và lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; nhu cầu hàng hoá toàn cầu có xu hướng giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi; điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng thắt chặt ảnh hưởng mạnh hơn đến doanh nghiệp, thương mại và đầu tư quốc tế; rủi ro của hệ thống ngân hàng; đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục hoàn toàn. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia phát triển có dấu hiệu chững lại mặc dù đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát, nhiều nền kinh tế lớn có xu hướng khuyến khích, đưa dòng vốn FDI quay trở về nước. Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh thu hút FDI giữa các quốc gia trong khu vực cũng dần “tăng nhiệt” với nhiều chính sách mới để cạnh tranh đón dòng vốn đầu tư dịch chuyển.
Những yếu tố này đang gây áp lực, làm giảm đáng kể dòng vốn FDI toàn cầu, ảnh hưởng tiêu cực đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nền kinh tế lớn, trong đó có các đối tác đầu tư của Việt Nam, dẫn đến thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam những tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù từ đầu năm đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta vẫn trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên dấu hiệu tích cực là mức giảm ngày càng thu hẹp. Đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 7 tháng đã có mức tăng trưởng dương.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam (FDI) tính đến ngày 20/7/2023 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 16,24 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng vốn FDI đăng ký 7 tháng năm 2023 đã cải thiện rất nhiều so với mức giảm 7,1% của cùng kỳ 2022, được thể hiện qua những tín hiệu tích cực như sau:
- Vốn đăng ký cấp mới có 1.627 dự án với số vốn đạt 7,94 tỷ USD, (chiếm 48,9% tổng vốn đăng ký) tăng 75,5% về số dự án và tăng 38,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 4,14 tỷ USD (chiếm 25,5% tổng vốn đăng ký), tăng mạnh 60,7%. Riêng chỉ có vốn đăng ký điều chỉnh với số vốn đầu tư tăng thêm 4,16 tỷ USD (chiếm 25,6% tổng vốn đăng ký), giảm 42,5% nhưng số lượt dự án tăng vốn lại tăng 27,1% so với cùng kỳ. Mức tăng, giảm chi tiết này khẳng định niềm tin của nhà ĐTNN đối với chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư của Việt Nam an toàn nên vẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài quyết định đến đầu tư và mở rộng dự án hiện hữu tại Việt Nam.
- Tốc độ tăng số dự án mới (tăng 75,5%) lớn hơn tốc độ tăng tổng vốn đầu tư mới (tăng 38,6%) cho thấy: (i) các nhà ĐTNN quy mô vừa và nhỏ tiếp tục quan tâm, tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam và đưa ra các quyết định đầu tư mới; (ii) các tập đoàn lớn hiện đang cẩn trọng, xem xét kỹ việc tiếp tục đầu tư lớn vào Việt Nam trong bối cảnh tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu có hiệu lực từ năm 2024.
- Các dự án đầu tư mới vẫn tập trung vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,…) như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Bình Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Đồng Nai,…
- Các nhà đầu tư đến từ châu Á, các đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc), Đài Loan (Trung Quốc)). Riêng 6 đối tác này đã chiếm tới 78,2% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước trong 7 tháng năm 2023.
Cần đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI vào Việt Nam để có những điều chỉnh chính sách phù hợp
Để thu hút dòng vốn FDI có chất lượng trong thời gian tới trong bối cảnh xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia có dấu hiệu chậm lại, Việt Nam cần thực thi nhiều giải pháp hiệu quả, cụ thể như sau:
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, tiếp tục cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD); đẩy mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và phát triển; rà soát, sửa đổi cơ chế chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động, cũng như cần phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ kết nối các tỉnh, vùng kinh tế tạo thuận lợi cho thu hút ĐTNN.
- Chú trọng đến việc đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia về thời gian đàm phán, ký thỏa thuận và triển khai thực hiện; ưu tiên các nhà đầu tư chiến lược; tạo lập chuỗi sản xuất toàn cầu. Xây dựng cơ chế ưu tiên doanh nghiêp công nghệ cao và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước;
- Các doanh nghiệp trong nước cần phải nỗ lực nâng cao năng lực: năng lực công nghệ, chất lượng lao động, quản lý,… Đây là cơ hội để các doanh nghiệp ĐTNN tìm đến đặt hàng và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước hoàn thiện quy trình sản xuất, tăng cơ hội liên kết.
- Tập trung hoàn thiện thể chế về đầu tư theo hướng tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, nghiên cứu và ban hành các chính sách phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực để thu hút được dòng vốn FDI chất lượng. Cần loại bỏ hoàn toàn các chi phí không chính thức bởi đây là nút thắt cản trở dòng vốn đầu tư không chỉ của các doanh nghiệp FDI mà còn của các DN tư nhân trong nước.
- Rà soát toàn bộ các khu công nghiệp (KCN): các KCN cần ưu tiên mở rộng, xây mới, các KCN cần thu hẹp. Công bố danh sách các KCN có quỹ đất sạch, cơ sở hạ tầng sẵn sàng... để thu hút đầu tư; đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, kết nối giao thông thông suốt giữa các tỉnh/thành phố, các vùng/miền, tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư, hoạt động SXKD phát triển.
- Chủ động triển khai các chiến dịch vận động xúc tiến đầu tư, khẳng định Việt Nam là điểm đến đầu tư an toàn, tin cậy. Chủ động kết nối, làm việc với các tập đoàn lớn của thế giới để trao đổi, chia sẻ các cơ hội đầu tư tại Việt Nam;
- Chú trọng công tác đối thoại chính sách, có biện pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI, nhất là về thủ tục hành chính, đất đai. Tăng cường công tác phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài.
- Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư như rà soát, bổ sung quỹ đất sạch; rà soát lại quy hoạch điện; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; bổ sung chính sách để phát triển công nghiệp hỗ trợ; xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư FDI có công nghệ tiên tiến, có khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài để phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia
- Chủ động, theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI vào Việt Nam để có những điều chỉnh chính sách phù hợp trong việc thu hút dòng vốn FDI có chất lượng.
- Chính phủ có các chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh quá trình triển khai nguồn vốn FDI thực hiện tại Việt Nam. phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư./.