Nhân lực số: Giải pháp cho bảo vệ bản quyền sách
Internet giúp cho con người xích lại gần nhau, xuất bản thông tin và tìm kiếm đối tượng tiếp nhận cũng thật đơn giản. Tuy nhiên, cũng chính sự nhanh chóng, đơn giản ấy lại tạo ra thử thách trong việc quản lý thông tin.
Xuất bản trong thời đại bùng nổ thông tin có sự chuyển biến sâu sắc, đảo lộn mối quan hệ vốn có giữa các yếu tố trong hệ thống dây chuyền xuất bản. Dây chuyền xuất bản truyền thống, biên tập, in ấn và phát hành phát triển theo mô hình xuất bản mới, theo xu hướng dưới sự hỗ trợ của công nghệ.
Quyền tác giả (QTG), quyền sở hữu (QSH) đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ là quyền lợi chính đáng của tác giả. Xuất bản hiện thực hoá giá trị tác phẩm, đưa tác phẩm đến với công chúng đồng thời giữ vai trò bảo hộ QTG, QSH tác phẩm đó. Xét trên phương diện truyền tải, bản quyền sách thuộc về nhà xuất bản (NXB) và tác giả cần được bảo vệ trong bối cảnh phức tạp của chuyển đổi số (CĐS).
Một trong những giải pháp mới trong việc bảo vệ bản quyền (BVBQ) sách đã được đại diện Khoa Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhắc đến tại Hội thảo khoa học quốc tế “Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng” diễn ra tại TP.HCM mới đây là nhân lực số.
Xây dựng nhân lực cùng cơ chế bảo vệ bản quyền
Nguồn nhân lực số là trọng tâm của CĐS và BVBQ xuất bản phẩm. Có thể thấy, BVBQ sách đến từ phương diện cơ bản: Vận dụng kỹ thuật số để BVBQ; Xử lý và cung cấp nội dung có bản quyền; Kinh doanh nội dung có bản quyền. Tương ứng với từng mô hình là nguồn nhân lực tương ứng, và cần thiết xây để dựng và phát triển đồng bộ trong nội bộ NXB.
Với nhân lực kỹ thuật, nguồn lực này yêu cầu có khả năng tiếp cận, vận hành kỹ thuật số hiện đại để BVBQ sách. Sự đòi hỏi của nhân lực giỏi kỹ thuật số là yêu cầu cần thiết khi hiện nay các biện pháp BVBQ nói chung, bản quyền số nói riêng dựa trên sự ứng dụng công nghệ hiện đại. Mặc dù nhà cung cấp kỹ thuật số đóng vai trò là mắt xích trong mô hình xuất bản số, song trong nội bộ cơ quan xuất bản cần phải có bộ phận chuyên môn tiếp nhận chuyển giao và vận hành kỹ thuật.
Nguồn lực này cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản như có trình độ chuyên môn về CNTT, có khả năng nắm bắt, sử dụng thành thạo các giải pháp công nghệ an toàn bảo mật nhằm BVBQ, đồng thời có khả năng pháp hiện, đề xuất hướng phát triển công nghệ để khắc phục vấn đề phát sinh trong quá trình sử dụng.
Hiện nay, công nghệ BVBQ khá đa dạng, không ngừng phát triển. Tiêu biểu như tường lửa, mạng riêng ảo, công nghệ quản lý bản quyền số DRM, công nghệ mật mã, công nghệ thông báo kỹ thuật số, hình mờ kỹ thuật số, công nghệ vân tay số. Đội ngũ kỹ thuật NXB cần nắm vững về kỹ thuật để đề xuất sử dụng biện pháp phù hợp, tối ưu, tiết kiệm chi phí. Đối với nhân lực làm việc trong lĩnh vực xuất bản cần hiểu và nắm vững bản chất, nguyên tắc và quy trình xuất bản. Cần thiết được bồi dưỡng trình độ sơ cấp về lý luận chính trị.
Nhân lực xử lý và cung cấp nội dung có bản quyền là nguồn nhân lực trọng tâm của NXB, là yêu cầu bắt buộc khi NXB muốn CĐS thành công.
Nguồn nhân lực này bao gồm:
Lãnh đạo NXB với tư cách là người quản lý
Đây là lực lượng đưa ra các quyết định quản lý nguồn lực trong NXB. Quản lý đơn vị xuất bản trên cơ sở ứng dụng công nghệ đòi hỏi năng lực và sự am hiểu về CNTT. Yêu cầu về nguồn lực trong tương lai, đòi hỏi các cơ sở đào tạo cung cấp nguồn lực được đào tạo cơ bản, đáp ứng tốt nhất nhu cầu công việc.
Biên tập viên (BTV)
So với các khả năng biên tập truyền thống, các khả năng biên tập mới thích ứng với các yêu cầu của thời đại số chủ yếu được phản ánh trong việc lựa chọn chủ đề. Vì vậy, các BTV và đơn vị xuất bản bắt buộc phải lập kế hoạch khi xuất bản dự án, cần xem xét khả năng lựa chọn đề tài hoạt động trên đa phương tiện, đồng thời có khả năng thiết kế toàn diện đề tài.
BTV phải quen thuộc với các sản phẩm của nhiều phương tiện khác nhau và các yêu cầu hoạt động của chúng, đồng thời có khả năng thành thạo trong việc lựa chọn chủ đề trên các phương tiện khác.
Nhìn từ phương pháp làm việc, hoạt động biên tập xuất bản để tạo ra các sản phẩm chứa nội dung số đều được thực hiện thông qua các thiết bị đầu như cuối máy tính, phụ thuộc vào công nghệ như CNTT, nền tảng mạng và chuyển đổi đa phương tiện, bao gồm: khả năng tìm kiếm thông tin, các tài liệu cần thiết cho việc lựa chọn và biên tập chủ đề; khả năng vận hành máy tính, có thể sử dụng máy tính để xử lý bản thảo, giao tiếp với tác giả và các trao đổi với đối tác nước ngoài...
Có thể nói, BTV hiện nay đã trở thành chuyên gia trong lĩnh vực xử lý kỹ thuật số và sản xuất các sản phẩm nội dung tri thức có bản quyền.
Nguồn nhân lực kinh doanh xuất bản phẩm có bản quyền
Đối với nhân lực kinh doanh xuất bản, đòi hỏi năng lực tiếp cận thị trường thông qua ứng dụng công nghệ và phân phối xuất bản phẩm có bản quyền.
Ngày nay, các đơn vị xuất bản phải đối mặt với một thị trường xuất bản đa dạng bao gồm các nhóm người tiêu dùng khác nhau. Các thị trường khác nhau có các mô hình lợi nhuận khác nhau và quy trình hoạt động cũng có những yêu cầu khác nhau. Do đó, nhân lực đơn vị xuất bản phải có các khả năng tiếp thị, trong đó quan trọng nhất là khả năng dự báo thị trường, khả năng thiết kế bao bì sản phẩm, khả năng quảng bá. Có thể thấy, nhân lực đơn vị xuất bản trong thời đại thương mại điện tử (TMĐT) nên trở thành những chuyên gia tiếp thị thông minh trên thị trường sản phẩm số.
Nhân lực làm công tác quan hệ công chúng (QHCC)
Đây là nội dung mới của thời đại truyền thông đại chúng. Hiện nay, tốc độ truyền tải thông tin ngày càng nhanh khiến mối liên kết giữa ngành xuất bản và xã hội ngày càng sâu rộng. Mỗi đơn vị xuất bản cần bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác QHCC.
Yêu cầu của công tác QHCC là phát hiện và đáp ứng nhu cầu nhu cầu xã hội, phù hợp với yêu cầu ra mắt sản phẩm, và chuyển chúng thành thị trường cho các ấn phẩm cụ thể. Công việc cụ thể như hoạch định và thiết kế các chiến lược QHCC xã hội khác nhau theo nhu cầu phát triển của hoạt động kinh doanh xuất bản, xây dựng và thực hiện các chiến lược QHCC khác nhau theo yêu cầu phát triển thị trường xuất bản, tổ chức và tham gia các hoạt động QHCC khác nhau theo nhu cầu của công chúng và quảng bá các sản phẩm đã xuất bản.
Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả
Đây là tổ chức được uỷ quyền quản lý QTG, đại diện cho tác giả, và bảo hộ tác phẩm.
Hệ thống quản lý tập thể QTG đóng vai trò quan trọng. Hệ thống quản lý tập thể QTG, tổ chức uỷ thác quản lý về QTG, quyền liên quan, với tư cách đại diện pháp lý bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu QTG.
Trên thế giới, mô hình quản lý tập thể QTG đã xuất hiện từ lâu, đóng vai trò quan trọng, thường xuyên trong bảo vệ QTG. Tổ chức quản lý tập thể QTG được phân thành 2 loại hình: Quản lý uỷ thác QTG, và đại lý QTG.
Dịch vụ quản lý uỷ thác QTG là chỉ đơn vị tổ chức được tác giả trao cho một số lợi ích nhất định về quyền tài sản, quyền xuất bản, và các quyền có liên quan trên cơ sở tin tưởng và lợi ích. Tác giả được hưởng lợi ích từ việc trao quyền quản lý các quyền cho tổ chức đó.
Hiện nay, tại Việt Nam đang có các tổ chức uỷ thác QTG như Trung tâm Bảo vệ QTG Âm nhạc Việt Nam (VCPMC), Trung tâm QTG Văn học Việt Nam (VLCC), Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Việt Nam (RIAV); Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam (VIETRRO).
Kinh nghiệm hoạt động của tổ chức quản lý QTG, quyền liên quan ở các nước phương Tây cho chúng ta hai gợi ý về tăng cường vai trò của tổ chức QTG, quyền liên quan nhằm bảo vệ có hiệu quả bản quyền: Một là, tổ chức đại diện QTG nhận đóng vai trò trung gian giới thiệu tác giả và tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm, đồng thời đại diện pháp lý cho tác giả. Tổ chức, cá nhân giao dịch trực tiếp với tác giả. Hai là, các tác giả có thể giao kết hợp đồng ủy quyền quản lý và khai thác quyền với một tổ chức quản lý tập thể để được hưởng thù lao cho các tác phẩm của mình,
Đối với phương thức đại lý QTG (còn gọi là doanh nghiệp môi giới QTG) là những người đại diện hoặc môi giới vì được hưởng quyền tài sản cũng như các quyền liên quan từ tác giả. Có thể nói, đại lý QTG là trung gian cơ sở dữ liệu (CSDL) (CSDL về đối tượng sáng tạo), trên danh nghĩa chủ sở hữu quyền ký kết hợp đồng sử dụng, hiệu quả hợp đồng trực tiếp chuyển giao chủ sở hữu quyền, hoặc là trung gian giữa chủ sở hữu quyền và người được sử dụng chuyển giao sử dụng quyền.
Cơ chế quản lý uỷ thác QTG thông qua hai tổ chức cơ bản tổ chức quản lý tập thể QTG và đại lý QTG là nhóm hoạt động vì lợi ích của tác giả và chủ sở hữu QTG, quyền liên quan. Sự đại diện của các tổ chức này thực hiện quản lý tập trung với cơ sở chuyên nghiệp vụ và pháp lý vững chắc góp phần bảo vệ tối đa bản quyền.
BVBQ là một quá trình phức tạp cần sự phối hợp nhiều nguồn lực xã hội khác nhau. Nghiên cứu bước đầu của Khoa Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền về sự hoạt động và phối hợp giữa các nguồn lực trong chuỗi xuất bản trong môi trường xã hội hiện nay, có thể thấy: Từ góc độ pháp lý, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Xuất bản, Luật Dân sự, Luật Hình sự và các công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học tạo hành lang pháp lý cho BVBQ.
Từ góc độ NXB, nguồn lực và công nghệ hiện đại là chìa khoá quan trong để BVBQ. Từ góc độ tổ chức dân sự, tổ chức quản lý tập thể quyền tác với quy định rõ về vai trò, nghĩa vụ, với tư cách là đại diện cho quyền lợi của tác giả, bảo hộ quyền và lợi ích cho tác giả được pháp luật thừa nhận. Cơ chế hoạt động của tổ chức này được cấp có thẩm quyền thông qua và kiểm soát chặt chẽ./.