Các nước mạnh như Hàn Quốc, Singapore, Israel, ... đều có những chính sách, hành động riêng để thúc đẩy phát triển lĩnh vực an toàn, an ninh mạng (ATANM) đặc biệt là xây dựng nền công nghiệp ATANM. Việt Nam đã và đang triển khai các biện pháp, hành động nào để phát triển và làm chủ Hệ sinh thái sản phẩm an toàn thông tin (ATTT) mạng của mình?
“Những người làm an ninh mạng phải là những chiến binh an ninh mạng, những chiến binh bảo vệ hoà bình. Cường quốc an ninh mạng cũng giống như cường quốc quân sự trong thế giới thực. Việt Nam phải là cường quốc về an ninh mạng thì không ai đánh mình, vì thế có hoà bình và con cháu chúng ta sẽ không phải chết trên sa trường” - đây là thông điệp trong bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng với những người làm an ninh mạng trong Ngày ATTT Việt Nam diễn ra ngày 30/11/2018.
Triển khai hành động, trong thời gian qua, Việt Nam
đã tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước mạnh và đã có những biện pháp, hành động cụ thể để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp (DN) ATTT mạng và Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam. Bài viết này sẽ giới thiệu kinh nghiệm của một số nước và các biện pháp, hành động của Việt Nam để phát triển và làm chủ hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng.
Hành động, kết quả phát triển lĩnh vực ATTTM, xây dựng nền công nghiệp ATTTM của một số nước
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hiện tại, thị trường có Hàn Quốc có khoảng 18 DN ATTT lớn, đại diện cho lĩnh vực ATANM của nước này. Sản phẩm của các DN Hàn Quốc tập hợp lại thành một hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ ATTT mạng đa dạng với tổng doanh thu của các DN ước tính năm 2019 đạt khoảng 3,280 tỉ Won (tương đương khoảng 3 tỉ USD) và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng qua các năm. Nhìn chung, sản phẩm, dịch vụ của các DN Hàn Quốc không tập trung vào số lượng mà tập trung vào sự khác biệt, mỗi công ty sẽ có thế mạnh riêng trong từng lĩnh vực cụ thể (ngoại trừ một số DN lớn). Bên cạnh đó, các DN Hàn Quốc đã có các sản phẩm ATTT cho một số lĩnh vực mới như: Cloud, IoT... sản xuất được các thiết bị bảo mật chất lượng cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra quốc tế.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Hàn Quốc có định hướng tập trung về sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao thay vì phát triển sản phẩm, dịch vụ tập trung vào giá cả. Việc ưu tiên sử dụng sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao tại thị trường trong nước thông qua các chính sách ưu đãi về thuế đối với các khoản đầu tư vào bảo mật thông tin và các hoạt động nghiên cứu phát triển cũng góp phần mở rộng thị trường ATTT mạng nội địa của quốc gia này. Các chính sách về quản lý giá trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm, dịch vụ ATTT cũng được quan tâm để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh của thị trường.
Hàn Quốc coi ngành công nghiệp ATANM có tính chất thương mại và cần được gia tăng tính cạnh tranh. Nói cách khác, họ coi đây là một sản phẩm (hàng hóa), dịch vụ cụ thể tương tự như các loại sản phẩm, dịch vụ khác và cần được khuyến khích cạnh tranh tự do. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn có những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các ý tưởng sáng tạo, đột phá để khuyến khích phát triển và bảo vệ những nghiên cứu này trước sức cạnh tranh của thị trường. Để gián tiếp mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp ATTT mạng trong nước, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng hệ thống “Thông báo công khai về ATTT” (Public Notification of Information Security) và được truyền thông rộng rãi, thông báo về tình trạng mất ATTT của các cơ quan, tổ chức, DN, từ đó khuyến cáo các cơ quan tổ chức tăng cường các biện pháp ATTT.
Bên cạnh đó, để hỗ trợ phát triển thị trường quốc tế đối với các sản phẩm, dịch vụ ATTT (cũng như các sản phẩm CNTT nói chung) của Hàn Quốc, tại một số thị trường mục tiêu, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập các văn phòng đại diện hợp tác CNTT ở các thị trường tiềm năng, tại Việt Nam là Trung tâm hợp tác CNTT Việt Nam - Hàn Quốc. Việc đề cao vai trò dẫn dắt của các cơ quan Chính phủ trong hoạt động hỗ trợ phát triển hợp tác quốc tế của Hàn Quốc mang lại các kết quả hữu ích cho DN. Thông thường, các DN Hàn Quốc làm việc với quốc tế thông qua các văn phòng đại diện này thường nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ nước sở tại và văn phòng đại diện để tiếp cận tới các khách hàng tiềm năng. Cụ thể hơn nữa, khi các DN Hàn Quốc nhận được yêu cầu hợp tác hoặc có nhu cầu muốn hợp tác với các doanh nghiệp tại một quốc gia cụ thể thì có thể thông báo với văn phòng đại diện của Chính phủ tại khu vực đó để nhận được sự hỗ trợ kết nối. Việc này góp phần gia tăng vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, cũng như đảm bảo kết quả của các hoạt động hợp tác quốc tế của DN.
Với mục tiêu tạo ra một hệ sinh thái sáng tạo cho ngành công nghiệp an ninh mạng để đảm bảo tính cạnh tranh về công nghệ, nguồn nhân lực và các ngành công nghiệp quan trọng đối với an ninh mạng quốc gia, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra các giải pháp cụ thể trong Chiến lược quốc gia về an ninh mạng (National Cybersecurity Strategy) của Hàn Quốc: (1) Mở rộng đầu tư cho an ninh mạng; (2) Tăng cường khả năng cạnh tranh của lực lượng lao động trong lĩnh vực an ninh mạng; (3) Thúc đẩy môi trường phát triển cho các công ty ATANM; (4) Thiết lập nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong thị trường an toàn, an ninh mạng.
Kinh nghiệm của Singapore
Singapore cũng là quốc gia có tốc độ phát triển nhanh trong lĩnh vực an toàn, an ninh mạng. Cơ quan An ninh mạng quốc gia (CSA) của Singapore được thành lập vào tháng 4/2015, hiện được quản lý bởi Bộ TT&TT của Singapore (MCI) có nhiệm vụ giám sát và điều phối các hoạt động cũng như tăng cường an ninh mạng của Singapore. Cơ quan này là đơn vị đầu mối của hầu hết các hoạt động bảo đảm ATANM tại Singapore và có vai trò dẫn dắt phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ ATANM trong nước cũng như hỗ trợ ngành công nghiệp ATANM Singapore vươn ra toàn cầu. Cơ quan An ninh mạng quốc gia của Singapore được giao nhiệm vụ thúc đẩy nền kinh tế kỹ thuật số của đất nước, chịu trách nhiệm ươm tạo một hệ sinh thái ATANM và đào tạo các chuyên gia CNTT có trình độ cao, chuyên môn sâu về nghiên cứu và phát triển.
Singapore đang nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm an ninh mạng của thế giới và nằm trong nhóm các nước dẫn đầu thế giới về chỉ số an toàn, an ninh mạng do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đánh giá gần nhất vào năm 2018. Ngoài ra, thị trường an toàn, an ninh mạng tại Singapore ước tính sẽ tăng lên 900 triệu đô la Singapore (600 triệu USD) vào năm 2020. Để đạt được những kết quả quan trọng nói trên, Singapore đã xây dựng và áp dụng các giải pháp, chính sách cụ thể: (1) Thu hút các công ty an ninh mạng đẳng cấp thế giới; (2) Hỗ trợ cho các công ty khởi nghiệp; (3) Hỗ trợ các DN ATANM nội địa; (4) Tài trợ cho nghiên cứu và phát triển để đổi mới nhanh chóng; (5) Quan hệ đối tác toàn cầu để mở ra thị trường quốc tế.
Theo nghiên cứu của Gartner, chi tiêu cho ATANM toàn cầu ước tính đạt 113 tỷ USD vào năm 2020. Chính phủ Singapore nhận định rằng việc phát triển an ninh mạng tại nội địa mang lại cơ hội mới cho các công ty mở rộng ra toàn cầu. Với thế mạnh là một trong 5 thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Singapore có những ưu thế tiếp cận tới thị trường ATANM 625 triệu dân ở khu vực Đông Nam Á và cùng các thành viên ASEAN nâng cao năng lực bảo đảm ATANM của khu vực. Ngoài ASEAN, chính phủ Singapore còn xây dựng các quan hệ đối tác quốc tế quan trọng nhằm thống nhất chính sách ATANM trên toàn cầu, tận dụng các nguồn lực và kinh nghiệm từ các tổ chức như Interpol, ITU...
Kinh nghiệm của Israel
Isarel coi ATANM trở thành một mục tiêu quốc gia rõ ràng vào tháng 11/2010 với việc Chính phủ khởi động “Sáng kiến Không gian mạng Quốc gia” dưới sự bảo trợ của Hội đồng Quốc gia về Nghiên cứu và Phát triển thuộc Bộ Khoa học. Lực lượng đa ngành đặc biệt này do chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu và Phát triển Quốc gia đứng đầu, và bao gồm khoảng 80 chuyên gia từ quân đội, các bộ, học viện và khu vực tư nhân. Lực lượng này đã đưa 12 khuyến nghị và đưa vào Nghị quyết 3611 của Chính phủ vào tháng 8/2011, mang tên “Nâng cao năng lực không gian mạng quốc gia”. Song song với đó Chính phủ cũng thành lập Cục Không gian mạng Quốc gia (INCB) là cơ quan tham mưu, kiện toàn về ATANM.
Nghị quyết 3611 của Chính phủ Isarel chỉ ra bốn ưu tiên quốc gia trong lĩnh vực không gian mạng: (1) Nâng cao năng lực quốc gia và cải thiện việc quản lý các thách thức không gian mạng hiện tại và tương lai; (2) Cải thiện “việc bảo vệ các cơ sở hạ tầng quốc gia cần thiết cho việc duy trì cuộc sống ổn định và hiệu quả ở Nhà nước Israel”; (3) Nâng cao vị thế của đất nước như một trung tâm toàn cầu về phát triển công nghệ thông tin (CNTT); (4) Khuyến khích hợp tác liên ngành giữa các học viện, ngành công nghiệp, khu vực tư nhân và các bộ của chính phủ.
Các Nghị quyết bổ sung của Chính phủ Israel, cụ thể là các Nghị quyết 2443 và 2444 được xây dựng chi tiết cho các ưu tiên quốc gia này và mở rộng năng lực thể chế cho an ninh mạng bằng cách thành lập Cục Phòng thủ Mạng bao gồm cả INCB và Cơ quan An ninh Mạng Quốc gia.
Cục Không gian mạng Quốc gia Israel có trách nhiệm phụ trách toàn bộ mảng không gian mạng dân sự. Cơ quan INCB trở thành trung tâm đầu mối liên hệ của các cơ quan hành chính chính phủ, các nhà lãnh đạo công nghiệp, các nhà nghiên cứu, quan chức,... INCB cũng hợp tác chặt chẽ với Quân đội và Bộ Quốc phòng. Do đó, Cục Không gian mạng Quốc gia Israel cũng liên kết hai mảng quân sự và dân sự, mặc dù thực tế là ranh giới giữa các mảng này ở Israel là rất mờ nhạt. Kể từ năm 2012, Bộ Quốc phòng có cơ quan quản lý mạng trung ương, phụ trách quản lý và điều phối quan hệ đối tác giữa Quân đội, các dịch vụ an ninh của Israel và các doanh nghiệp ATANM
Đây là một quá trình đôi bên cùng có lợi, theo nghĩa Quân đội tìm racâu trả lời về kỹ thuật cho các vấn đề cụ thể của mình, trong khi các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tài trợ cho nghiên cứu và phát triển để tạo ra các công cụ cần thiết cho quân đội.
Nhằm nâng cao nguồn nhân lực về an toàn an ninh mạng Chính phủ Israel, cụ thể là cơ quan INCB đã xuất bản một tài liệu quy chế về nghiệp vụ an toàn, an ninh mạng ở một số ngành nghề tại Israel. Quy chế này đặt ra nhằm đảm bảo các cơ quan, tổ chức có thể đảm bảo mức độ ATANM ở mức cao nhất bằng việc sử dụng các chuyên gia có kỹ thuật cao và có phẩm chất đạo đức tốt. Chính sách này xác định 05 ngành nghề ATTT mạng sẽ được quy định và các cơ sở kiến thức, đào tạo cần thiết. Các chuyên gia được chứng nhận sẽ phải trải qua các kỳ kiểm tra định kỳ và một danh sách các chuyên gia có năng lực sẽ được phổ biến rộng rãi.
Một số giải pháp được Chính phủ Israel áp dụng để thúc đẩy phát triển thị trường an toàn, an ninh mạng trong nước, cụ thể: (1) Chính phủ đứng ra với tư cách là cơ quan điều phối; (2) Chính phủ có vai trò xúc tác kinh doanh; (3) Sử dụng quân đội làm nơi ươm mầm khởi nghiệp; (4) Đầu tư vào nguồn lực con người.
Biện pháp và hành động của Việt Nam
Kể từ thời điểm Luật ATTT mạng với các quy định về quản lý, thúc đẩy DN, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ATANM có hiệu lực tháng 7/2015 đã bước đầu định hình nên thị trường, DN ATTT mạng Việt Nam với sự tham gia của 89 DN đến thời điểm hiện tại. Hoạt động của DN đã chuyển dịch từ hướng tự phát, nhỏ lẻ sang chuyên nghiệp, phát triển đa dạng sản phẩm, dịch vụ, chất lượng về đội ngũ nhân sự và hệ thống trang thiết bị kỹ thuật.
Năm 2019, Bộ \TT&TT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/ CT-TTg ngày 07/6/2019 về việc tăng cường đảm bảo ATTT mạng, chỉ đạo, định hướng đối với việc thúc đẩy phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ nội địa thông qua các cơ chế khuyến khích sản xuất, sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong nước, tăng tỷ lệ đầu tư cho ATTT mạng. Chỉ thị 14/CT-TTg năm 2019 là yếu tố trực tiếp tác động và tạo sự chuyển mình mạnh mẽ của thị trường, DN, đặc biệt là Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam. Cùng với đó, trong năm 2019, Bộ TT&TT đã thành lập và ra mắt Liên minh phát triển Hệ sinh thái ATANM Việt Nam với 21 thành viên là các DN hàng đầu về ATTT mạng. Liên minh có sứ mệnh phát triển sản phẩm ATANM nội địa đa dạng, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn cho các hệ thống thông tin trong nước, tạo lợi thế cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài.
Trong định hướng phát triển ngành TT&TT năm 2020, Bộ TT&TT xác định: “Hệ sinh thái các sản phẩm ATANM phải do chính DN Việt Nam xây dựng và làm chủ để phục vụ Chính phủ điện tử, đô thị thông minh và các hệ thống thông tin quan trọng quốc gia. Lực lượng ATANM có trách nhiệm bảo vệ sự thịnh vượng của quốc gia trên không gian mạng”.
Nhiệm vụ thúc đẩy, phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam do Bộ TT&TT triển khai lấy sự an toàn của người dân, tổ chức, DN làm trung tâm; doanh nghiệp phát triển sản phẩm, dịch vụ trong nước là trọng yếu. Trên cơ sở đó hình thành các quan điểm chủ đạo để triển khai nhiệm vụ: (1) Cơ quan quản lý nhà nước đồng hành cùng DN trong hoạt động phát triển thị trường, thúc đẩy hoạt động kinh doanh sản phẩm. (2) Định hướng phát triển DN đầu đàn có nền tảng vững chắc để hỗ trợ quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm; DN đầu đàn có vai trò phát triển các sản phẩm trọng tâm trong hệ sinh thái. (3) Định hình mặt bằng chung về chất lượng của sản phẩm trong nước thông qua các hoạt động xây dựng tiêu chí, đánh giá, kiểm định chất lượng sản phẩm.
Trong bối cảnh giai đoạn 2016 – 2020 và những tháng đầu năm 2021, công tác bảo đảm ATTT mạng trong nước đã được cơ quan các bộ, ngành, địa phương quan tâm, triển khai quyết liệt và đã đạt được một số kết quả, chuyển biến tích cực. Các hệ thống kỹ thuật quy mô quốc gia đã được triển khai và đưa vào vận hành khai thác phục vụ công tác bảo đảm ATANM trên cả nước. Tình hình phát triển của sản phẩm, dịch vụ ATTT do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, cung cấp đã cơ bản hình thành toàn diện và dần đóng vai trò chủ đạo tại thị trường sản phẩm, dịch vụ ATTT trong nước, góp phần chủ động trong công tác đảm bảo ATTT mạng cho Chính phủ điện tử.
Định hướng về phát triển sản phẩm, dịch vụ của các DN trong Liên minh phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam cũng ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Từ cuối năm 2019, với sự thành lập của Liên minh đã hình thành cầu nối trao đổi thông tin, phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước (Bộ TT&TT - Cục ATTT) và các DN trong thị trường. Cục ATTT đã có kênh tiếp cận để đồng hành, theo sát các hoạt động kinh doanh của DN trên thị trường. Trên cơ sở thông tin hai chiều, trực tiếp, Bộ TT&TT có thể nắm rõ bức tranh toàn cảnh của thị trường, liên tục cập nhật sản phẩm mới của DN và kịp thời đưa ra định hướng, chính sách hỗ trợ DN trong nước phát triển thị trường, phát triển sản phẩm để hoàn thiện Hệ sinh thái.
Kể từ năm 2018 đến thời điểm hiện tại, Hệ sinh thái sản phẩm ATANM của Việt Nam có những phát triển vững chắc về cả số lượng và chất lượng sản phẩm. Đa số các loại sản phẩm cần thiết phục vụ bảo đảm an toàn thông tin đều có sản phẩm nội địa. Chất lượng sản phẩm ATTT do các DN trong nước xây dựng và phát triển không hề thua kém DN nước ngoài và nhiều sản phẩm đã được các tổ chức thế giới ghi nhận. Ngoài ra, giá của sản phẩm trong nước cũng rất cạnh tranh. Các sản phẩm, dịch vụ do các DN Việt Nam sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng trong nước và đạt được niềm tin của các cơ quan, tổ chức, DN hướng tới việc thay thế sản phẩm, dịch vụ nhập khẩu trong những đối tượng bảo vệ trọng yếu.
Bộ TT&TT đã triển khai các nhiệm vụ thường xuyên, liên tục để cập nhật, theo dõi tình hình phát triển sản phẩm, phát triển thị trường trong nước; thực hiện các chỉ đạo trọng tâm của Lãnh đạo Bộ TT&TT: (1) Xây dựng danh sách sản phẩm, dịch vụ ATTT trọng điểm quốc gia; (2) Phát triển sản phẩm Make in Vietnam được sử dụng rộng rãi. Việc triển khai các nhiệm vụ này đã đạt được các kết quả bước đầu, làm tiền đề để thúc đẩy phát triển thị trường cho DN trong giai đoạn 2021-2025.
Các hoạt động thường xuyên
Việc xây dựng và duy trì kênh thông tin với các doanh nghiệp trong Liên minh phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam đã kịp thời cập nhật các kết quả nghiên cứu, phát triển sản phẩm của DN và định hướng DN bố trí nguồn lực đầu tư, nghiên cứu các sản phẩm trọng tâm mà chưa có sản phẩm. Bên cạnh đó, kênh thông tin trực tiếp là công cụ để Bộ TT&TT nắm bắt được các kết quả của DN trong hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm ra thị trường quốc tế (các sản phẩm nhận được giải thưởng bình chọn quốc tế có uy tín, các hoạt động mở rộng thị trường quốc tế...). Trên cơ sở đó, Bộ TT&TT có các chỉ đạo kịp thời để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong hoạt động thúc đẩy phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam theo định hướng đúng đắn, hiệu quả.
Định hướng DN phát triển sản phẩm và cập nhật tình hình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ
Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, Bộ TT&TT thường xuyên tổ chức làm việc, đối thoại với các doanh nghiệp tiềm năng trong Liên minh phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam để khuyến khích, thúc đẩy phát triển các chủng loại sản phẩm trọng tâm, có tiềm năng thương mại trên cơ sở nhu cầu thực tiễn của thị trường trong từng giai đoạn. Việc các DN đã có định hướng nghiên cứu đối với các sản phẩm một cách nghiêm túc và hoạt động phát triển sản phẩm trọng tâm của Hệ sinh thái đã có những biến chuyển rõ rệt từ phía các DN. Trong năm 2021, các sản phẩm hoàn thiện sẽ sớm được ra mắt, hứa hẹn gia tăng sự đa dạng về sản phẩm, dịch vụ ATTT mạng của Hệ sinh thái. Bên cạnh đó, Bộ TT&TT thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình sản phẩm, dịch vụ trong nước thông qua hoạt động báo cáo hàng tháng của DN.
Tổng doanh thu của sản phẩm ATANM do các DN Việt Nam sản xuất đã có những bước tiến dài trong những năm vừa qua thể hiện qua những số liệu cụ thể. Từ năm 2016 đến nay, thị trường sản ATANM Việt Nam đã chứng kiến những bước tăng trưởng vượt bậc của sản phẩm trong nước so với sản phẩm nước ngoài (từ tỉ lệ 22% năm 2016 tới tỉ lệ 45% năm 2020).
Song song với việc tăng trưởng của thị trường ATANM Việt Nam, sự tăng trưởng doanh thu đối với sản phẩm trong nước phản ánh tiềm năng còn rất lớn của lĩnh vực này (mức tăng trưởng thị trường qua các năm luôn đạt trên 25%). Tỷ lệ doanh thu của sản phẩm nội địa vẫn tiếp tục duy trì tăng trưởng so với sản phẩm nhập khẩu và đang ghi nhận mức tăng trưởng khả quan trong năm 2021.
Xây dựng và ban hành các bộ yêu cầu kỹ thuật, tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng Để phục vụ cho công tác kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin đối với sản phẩm, dịch vụ ATTT mạng, Bộ TT&TT đã có các chỉ đạo sát sao đối với đơn vị chuyên trách (Cục ATTT) để xây dựng dự thảo các bộ yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn phục vụ đánh giá sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phối hợp với các DN trong Liên minh để lấy ý kiến hoàn thiện đối với các bộ yêu cầu kỹ thuật, dự thảo tiêu chuẩn này.
Trong năm 2021, Bộ TT&TT đã xây dựng hoàn thiện và ban hành các bộ yêu cầu kỹ thuật: Quyết định 736/ QĐ-BTTTT ngày 31/5/2021 Ban hành Danh mục yêu cầu cơ bản bảo đảm ATTT mạng cho thiết bị IoT tiêu dùng; Quyết định 1126/QĐ-BTTTT ngày 30/7/2021 Ban hành Yêu cầu kỹ thuật cơ bản đối với sản phẩm Tường lửa ứng dụng web (WAF); Quyết định 1127/QĐ-BTTTT ngày 30/7/2021 Ban hành Yêu cầu kỹ thuật cơ bản đối với sản phẩm Quản lý và phân tích sự kiện ATTT (SIEM).
Trong năm 2020, Bộ TT&TT cũng đã xây dựng dự thảo TCVN “CNTT - Các kỹ thuật an toàn - Lựa chọn, triển khai và vận hành hệ thống phát hiện và ngăn chặn xâm nhập” (IDPS) đề xuất hoàn thiện các thủ tục để ban hành trong năm 2021.
Việc xây dựng hoàn thiện và ban hành các yêu cầu kỹ thuật, các bộ tiêu chí, tiêu chuẩn sẽ hỗ trợ hoạt động kiểm định, đánh giá chất lượng đối với các sản phẩm đang có mặt trên thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao chất lượng sản phẩm của các DN trong nước.
Xây dựng danh sách sản phẩm, dịch vụ ATTT trọng điểm quốc gia
Nhiệm vụ Xây dựng danh sách sản phẩm, dịch vụ ATTT trọng điểm quốc gia là nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động thúc đẩy phát triển Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam, được tổ chức triển khai với các tiêu chí cơ bản: (1) Sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chí kỹ thuật, tính năng cơ bản về ATTT; (2) Sản phẩm đã được triển khai thương mại hóa, được hoàn thiện, đóng gói đồng bộ.
Bộ TT&TT đã giao đơn vị chuyên trách (Cục ATTT) đề xuất và triển khai các nhóm nhiệm vụ chính để xây dựng danh sách sản phẩm, dịch vụ ATTT trọng điểm quốc gia, cũng như việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh đối với các sản phẩm này: (1) Xây dựng danh mục sơ bộ các sản phẩm, giải pháp có tiềm năng: Tổ chức làm việc với các DN sản xuất sản phẩm ATTT mạng lớn. Căn cứ vào danh sách sản phẩm thuộc Hệ sinh thái, các đề xuất của DN, xây dựng danh sách sơ bộ. (2) Đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí kỹ thuật; (3) Nhiệm vụ chính sách, biện pháp thúc đẩy thị trường: Phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ để xây dựng, hoàn thiện các chương trình, chính sách hỗ trợ đối với sản phẩm ATTT trọng điểm quốc gia; Hoàn thiện xây dựng các tiêu chuẩn đối với sản phẩm ATTT mạng, áp dụng thí điểm với một số sản phẩm nhập khẩu phổ biến; Tổ chức truyền thông, giới thiệu sản phẩm của DN tới các tổ chức, tập đoàn, DN để giới thiệu, thúc đẩy sử dụng sản phẩm nội địa; Đề xuất các hình thức khen thưởng cho DN có hoạt động nổi bật, đóng góp cho chủ trương phát triển sản phẩm Make in Vietnam.
Phát triển sản phẩm, dịch vụ Make in Vietnam
Trong những tháng đầu năm 2021, hoạt động rà soát các sản phẩm ATTT mạng do DN trong nước sản xuất trong Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam để đề xuất khuyến nghị sử dụng đối với các cơ quan, tổ chức, DN trong nước đã được triển khai đồng bộ, kịp thời. Đến tháng 6/2021 đã lựa chọn được 25 sản phẩm, giải pháp tiềm năng để xây dựng danh sách và trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt công văn số 2085/BTTTT-CATTT ngày 15/6/2021 về việc khuyến khích sử dụng sản phẩm giải ATANM Make in Vietnam tới 32 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại lớn.
Công văn 2085/BTTTT-CATTT về việc khuyến khích sử dụng sản phẩm, giải pháp ATANM Make in Vietnam bước đầu đã ghi nhận những tác động tích cực, thể hiện vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh doanh sản phẩm, giải pháp ATANM nội địa, phù hợp với các chủ trương định hướng hỗ trợ DN Việt Nam phát triển tại thị trường trong nước. Việc ban hành công văn 2085/BTTTT-CATTT là một động thái hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước (Bộ TT&TT) đối với hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ ATANM Việt Nam và được các DN đồng tình, ủng hộ. Đối với các DN sản xuất sản phẩm, giải pháp trong nước, việc ban hành công văn 2085/BTTTT-CATTT có vai trò tích cực, động viên các DN tiếp tục nghiên cứu, phát triển sản phẩm, dịch vụ. Sự quan tâm, hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước là yếu tố đảm bảo cho các DN trong hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ.
Thay cho lời kết
Phát triển và làm chủ Hệ sinh thái sản phẩm ATANM Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên theo sát, đồng hành cùng DN. Những viên gạch đầu tiên của Hệ sinh thái đã được lựa chọn kỹ lưỡng để tạo nên nền móng vững chắc cho tương lai. Dù công nghệ là thứ thay đổi thường xuyên và liên tục, nhưng với sự quyết tâm, kiên trì và phối hợp chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước và các DN thì mục tiêu làm chủ hoàn toàn công nghệ bảo đảm ATTT mạng để bảo vệ người dân, bảo vệ hệ thống của cơ quan, tổ chức, DN Việt Nam trên không gian mạng sẽ sớm trở thành hiện thực. Năm 2021 là năm nhiều thách thức, khó khăn, nhưng cũng lớn của dân tộc Việt Nam, trong đó có lĩnh vực ATTT mạng.
(Bài viết đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 8 tháng 8/2021)