Cuộc đua lên "đỉnh"
Phát biểu tại hội thảo khoa học pháp lý gắn với đối cuộc CMCN 4.0, Viện khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp tổ chức mới đây, TS. Phạm Trọng Nghĩa, Vụ Pháp luật, Văn Phòng Quốc hội cho biết sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ (nhất là thuật toán) trong bối cảnh gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận giữa các công ty (interest – driven) sẽ dẫn đến cuộc đua trong CMCN 4.0 ngày càng khốc liệt.
Cuộc đua này có thể là cuộc đua đưa nhân loại "lên đỉnh" hoặc có thể dìm loài người "xuống đáy". Trong mối quan hệ ba bên (Nhà nước - Xã hội - CMCN 4.0), Nhà nước sẽ làm gì, làm thế nào để một mặt làm cho người dân, doanh nghiệp (DN) và xã hội được hưởng thành quả lớn từ CMCN 4.0, mặt khác, phải giảm tối đa các tác động tiêu cực của CMCN 4.0 tới người dân, DN, xã hội và thậm chí cả nhân loại.
"Nhà nước cần ban hành hành lang pháp lý không chỉ ở cấp độ quốc gia mà còn là cấp độ quốc tế để CMCN 4.0 là cuộc đua để đưa nhân loại lên "đỉnh" chứ không phải là cuộc đua loài người "đáy"- TS Nghĩa, nhấn mạnh
Có thể nói, thời đại chúng ta đang sống là thời đại kỷ nguyên số và thực tế con người đã tạo ra chìa khóa để mở ra cuộc CMCN 4.0 phát triển trên đa lĩnh vực của đời sống, xã hội. Và chính cuộc cách mạng này đa đem lại nhiều lợi ích cho người lao động thông qua việc tăng năng suất lao động, từ đó tăng mức thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống và mở cửa thị trường lao động thông qua việc cắt giảm chi phí đi lại, vận chuyển, tạo ra những việc làm mới.
Trên quan điểm về tính tất yếu, những giá trị, lợi ích từ cuộc cách mạng trên, TS.Nghĩa cho rằng cuộc CMCN 4.0 thực sự tạo điều kiện cho người lao động, giúp họ tự do đi lại, tìm việc, có nhiều sự lựa chọn công việc, phạm vi làm việc không bị bó hẹp trong mỗi quốc gia, có thể đến, làm việc cho người sử dụng lao động ở các quốc gia khác.
Nhấn mạnh về lợi ích, giá trị thuận lợi, thuận tiện này, TS. Nghĩa dẫn chứng: Thực tế cho thấy, nếu Trung Quốc được coi là công xưởng của thế giới thì Ấn Độ được đánh giá là văn phòng của thế giới, bởi có rất nhiều người lao động Ấn Độ làm việc cho các công ty có trụ sở ở Châu Âu, Bắc Mỹ thông qua các call-centres đặt tại Ấn Độ.
Việc cắt giảm chi phí đi lại, chi phí lưu thông, giúp cho các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), được tự do lựa chọn địa điểm đầu tư ở nước này hoặc nước khác, nơi này hoặc nơi khác.
"Đầu tư để SXKD có nghĩa là sẽ tạo ra việc làm, nói cách khác, việc làm gắn liền với vốn đầu tư. Có nghĩa là khi vốn đầu tư có thể chuyển từ chỗ này qua chỗ khác thì việc làm có thể được đưa từ chỗ này sang chỗ khác. Vậy là từ chỗ của người đi tìm việc, thì nay, việc cũng có thể đi tìm người", TS Nghĩa nhấn mạnh.
Chúng ta dễ nhận thấy, thời gian qua, trên thế giới đã chứng kiến xu hướng thay đổi cả về bản chất và cơ cấu việc làm: số việc làm có hợp đồng làm việc dài hạn, suốt đời giảm xuống, việc làm gắn với một DN, một chủ sử dụng lao động giảm xuống và thay vào đó số việc làm linh hoạt, việc làm di động, việc làm tự do tăng lên. Các mô hình kinh doanh nền tảng như các công ty Uber, Grab, Airbnb, kinh doanh trực tuyến cũng đã và đang tạo ra nhiều mô hình việc làm mới…
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng này sẽ không chỉ làm thay đổi cách người ta tạo ra sản phẩm, mà còn cả địa điểm sản xuất. Nếu trước đây các nhà máy được di dời đến các quốc gia có nguồn lao động giá rẻ thì với cuộc cách mạng này, chi phí nhân công ngày càng trở nên ít quan trọng hơn, nhiều nhà đầu tư có kế hoạch rút các nhà máy, lắp ráp, chế tạo về nước. Xu hướng này không phải vì giá nhân công ở nước ngoài đang tăng lên, mà vì họ muốn về gần với khách hàng của mình, để có thể phản ứng nhanh nhạy với những thay đổi trong nhu cầu. Hơn nữa, các sản phẩm có kết cấu ngày càng phức tạp đang đòi hỏi người thiết kế và sản xuất ở cùng một nơi.
"Ngoài ra, cuộc CMCN 4.0 sẽ đem lại lợi ích kinh tế nhiều nhất cho những người phát minh, nhà đầu tư chứ chứ không phải là người lao động thông thường, dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội", TS Nghĩa đánh giá.
Thực tiễn cho thấy, ở nhiều nước phát triển, thu nhập thực tế của giới chủ, của lao động có chuyên môn cao thì liên tục tăng, trong khi đó, thu nhập thực tế của công nhân lao động có trình độ và kỹ năng khác thì lại giảm.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính kết cấu bền vững và xu thế hóa tất yếu đó, theo TS Nghĩa, một vấn đề quan trọng không chỉ đang đặt ra cho Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đó là tính pháp lý cần phải được thay đổi để đáp ứng các yêu cầu điều chỉnh những quan hệ, phương thức, chế độ lao động… mới này.
Người lao động đang bước vào thị trường lao động với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công việc bán thời gian, tự làm, quan hệ hợp đồng lao động cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn với sự xuất hiện của nhiều hợp đồng ngắn hạn hoặc tạm thời.
Điều này, đặt ra nhiều thách thức, trong đó có thách thức về bảo đảm quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể của những người lao động này… Đây cũng chính là vấn quan trọng phải được đặt trong "nội hàm" khái quát của tính pháp lý. Khi chúng ta có nền tảng, cơ sở pháp lý thống nhất, chặt chẽ, chúng ta thực hiện hiệu tốt vấn đề nêu trên, có nghĩa, cuộc đua đưa loài người sẽ lên "đỉnh" chứ không phải xuống "đáy" - TS Nghĩa, nhấn mạnh.
Cách mạng 4.0 tác động đến an sinh xã hội
Chúng ta không phủ nhận những tích cực, thuận lợi, lợi ích, thành tựu to lớn từ cuộc cách mạng 4.0 mang lại, tuy nhiên, theo TS. Nghĩa CMCN 4.0 cũng tiềm ẩn những nguy cơ đối với người lao động như bị mất việc làm do bị thay thế bằng máy móc; không được bảo vệ quyền lợi do có sự thay đổi về bản chất của quan hệ lao động do ứng dụng công nghệ mới; bị phân biệt đối xử bất bình đẳng trong xã hội giữa lao động có kỹ năng cao và thấp, giữa ông chủ sở hữu máy móc và người lao động…, từ đó, tạo ra gánh nặng lên hệ thống an sinh xã hội (ASXH) mà trực tiếp là bảo hiểm tự nguyện (BHTN).
Do vậy, theo TS. Nghĩa, để đảm bảo, bảo vệ các quyền, lợi ích cho người lao động trong cuộc cách mạng này, luôn cần các chính sách của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công và khuyến khích chúng phát triển như: bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội (BHXH), trợ cấp xã hội và những biện pháp có tính chất tương tự. Trong đó BHXH có vai trò quan trọng nhất.
Cần tăng cường mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN, từ đó góp phần tăng cường tình đoàn kết và cùng chia sẻ rủi ro cho người lao động, đồng thời, bảo vệ, ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.
Chúng ta cần thiết phải thu hẹp khoảng cách về độ bao phủ ASXH, tích hợp hệ thống dữ liệu di động, đăng ký di động và ứng dụng thanh toán ASXH, giảm chi phí giao dịch cho cơ quan BHXH và người tham gia.
"Việc ứng dụng CNTT, xây dựng thẻ ASXH điện tử nhằm tích hợp các hệ thống hiện có, cung cấp các tính năng, các dịch vụ trợ cấp cho người hưởng lợi (nộp hồ sơ đăng ký, chấp nhận đối tượng, chức năng chi trả, quản trị, rủi ro), các dịch vụ về tuân thủ chính sách (phát hiện gian lận), dịch vụ trợ giúp (quản lý tài chính nguồn lực; cung cấp nền tảng mới tích hợp và tối ưu hóa CNTT; trang bị cho cơ quan ASHX khả năng ứng phó với các áp lực kinh tế, xã hội, công nghệ và pháp luật một cách nhanh chóng…", TS Nghĩa, khẳng định.
Mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam
Theo số liệu thống kê từ Bộ LĐTB&XH, tính đến cuối năm 2019, tổng số lực lượng lao động Việt Nam hiện là 55,2 triệu người, trong đó 1,1 triệu người thất nghiệp, còn 54,1 triệu người có việc làm; nông lâm thủy sản chiếm 39,8%, công nghiệp - xây dựng chiếm 26,1% và dịch vụ 34,1%.
"Việt Nam đang đối mặt với sự chênh lệch đáng kể về lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn (thành thị chiếm 35,03%, nông thôn 64,97%). Nguồn nhân lực lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng kỹ năng còn thấp vẫn còn chiếm đa số… Do vậy, Việt Nam cần được chuẩn bị để phòng ngừa, giảm và hạn chế các tác động tiêu cực từ CMCN 4.0", TS Nghĩa đánh giá.
Thời gian qua, nhiều văn bản pháp luật về lao dộng ASXH đã được sửa đổi, bổ sung ban hành mới như Bộ luật lao động sửa đổi (BLLĐ) được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 20/11/2019 với 17 chương, 220 điều và có hiệu lực thi hành vào 01/01/2021. Bộ luật mới đã xác định tên gọi cụ thể mọi hợp đồng; quy định HĐLĐ được giao kết thông qua phương tiện điện tử, dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như HĐLĐ bằng văn bản… Những quy định mới này đã phù hợp với Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể ký kết HĐLĐ linh hoạt hơn trong bối cảnh CMCN 4.0.
Bên cạnh đó BLLĐ 2019 quy định mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh làm cơ sở cho việc áp dụng một số quy định đối với lao động ở khu vực phi chính thức, lao động tự tạo việc làm, phúc đáp phần nào yêu cầu của CMCN 4.0 là phù hợp.
Song hành với những ưu điểm về tính tương thích của pháp luật, TS. Nghĩa cho rằng vẫn còn tồn tại, hạn chế: Độ bao phủ ASXH còn thấp vì thiếu sự tương thích trong thiết kế hệ thống BHXH hiện nay so với các đặc điểm thị trường lao động, đặc biệt đối với các lao động làm các công việc không theo tiêu chuẩn và sự thiếu tuân thủ pháp luật của các DN khu vực chính thức, nhất là DN nhỏ và vừa.
Pháp luật, Công nghệ , ASXH… những nhân tố quan trọng CMCN 4.0
Có thể nói, Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cách mạng này. Nhà nước cần phải đóng vai trò quyết định, phải thông qua các công cụ của mình, nhất là công cụ pháp luật lao động để phát huy mặt tích cực về hạn chế mặt tiêu cực của CMCN 4.0 đối với người lao động.
"Việt Nam cần tham gia sâu rộng hơn nữa vào hệ thống pháp luật lao động, ASXH quốc tế, thông qua việc gia nhập, phê chuẩn thêm Công ước quốc tế và khu vực. Cần tăng cường sự ảnh hưởng của Việt Nam đến quá trình xây dựng pháp luật lao động quốc tế. Sớm nghiên cứu đề xuất xây dựng và tiến tới dự thảo Công ước lao động, ASXH quốc tế từ thực tiễn của Việt Nam",TS. Nghĩacho hay.
Bên cạnh đó, cần liên tục rà soát, đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật lao động và ASXH cả trên phương diện kỹ thuật luật pháp cũng như trong khâu tổ chức thực hiện. Trong đó, có tính đến việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động.
Những quy định pháp luật rõ ràng cần được hoàn thiện và tạo sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp và cần có chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nghiên cứu & phát triển (R&D), đổi mới công nghệ để tận dụng cơ hội từ cuộc CMCN 4.0.
Đồng thời, chúng ta cần nghiên cứu dự báo chính xác các xu hướng vận động và phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong tương lai. Trong đó, có các chỉ tiêu dự báo và kế hoạch về: Số lượng, chất lượng (sức khỏe, trình độ chuyên môn, kỹ năng, kỷ luật lao động, tính sáng tạo…) đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng này.
Đối với người làm chủ DN, TS. Nghĩa cho rằng: Cần thực sự coi nhân lực là nguồn vốn quan trọng nhất và đặt con người ở vị trí trung tâm trong quá trình cạnh tranh, phát triển. DN cần tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ sở dạy nghề để nâng cao trình độ công nghệ.
Với người lao động, mỗi người lao động cần xác định rõ năng lực, sở trường của mình và lực chọn nghề nghiệp phù hợp. Người lao động cần có được các kỹ năng phù hợp với những công việc mới và luôn thay đổi. Người lao động cần có cách tiếp cận chủ động với CMCN 4.0, phải coi đây là cơ hội, thay vì thách thức, không ngừng cập nhật nâng cao năng lực, kỹ năng làm việc để từng bước làm bạn với công nghệ máy móc mới, tiến đến làm chủ công nghệ máy móc mới, TS. Nghĩa nhấn mạnh.
Như vậy, việc xây dựng, hoàn thiện và đảm bảo thực thi các quy định pháp luật về lao động để phát huy thế mạnh về lao động của Việt Nam luôn có vai trò quan trọng, một nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển CMCN 4.0.
Khi chúng ta có đủ một hệ thống pháp luật lao động, ASXH tiến bộ, nghĩa là chúng ta sẽ một cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ và phát triển các nguồn lực – tài sản quý nhất của đất nước, quốc gia, góp phần quan trọng vào việc đưa Việt Nam trở thành một cường quốc về lao động, về kinh tế trong bối cảnh CMCN 4.0.