Phát triển hạ tầng số yếu tốt then chốt để Việt Nam bứt phá
Việt Nam đã quy hoạch tổng thể hạ tầng thông tin và truyền thông, với định hướng phát triển thành hạ tầng thế hệ mới, đồng bộ tạo dựng sự phát triển hài hòa, bền vững giữa các vùng và địa phương. Từ đó tạo ra không gian phát triển mới cho đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển Chính phủ số, kinh tế số, và xã hội số.
Phát triển hạ tầng số ưu tiên hàng đầu để phát triển đất nước
Việc triển khai quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông (TT&TT) được nhận định có vai trò quan trọng với sự phát triển tổng thể kinh tế xã hội Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã nhận định tại Hội nghị sơ kết công tác TT&TT 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024: Hạ tầng số Việt Nam gồm hạ tầng viễn thông và Internet, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng vật lý-số, hạ tầng chuyển đổi số (CĐS). Muốn phát triển kinh tế số thì phải có hạ tầng số. Hạ tầng thì phải có cơ sở vật chất của hạ tầng đó và phải cung cấp dịch vụ thiết yếu, hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội. Hạ tầng là cái nền cho phát triển, cái nền thì phải đủ và phải phổ cập.
“Công cuộc lớn nhất của CĐS là số hóa mọi thứ của thế giới thực, mô phỏng nó, tạo ra một ánh xạ 1-1 và tạo ra sự tương tác giữa thế giới thực và thế giới số. Con người có thêm một không gian nữa để sống, làm việc, sự giàu có và không gian sáng tạo của con người tăng ít nhất là gấp đôi. Có rất nhiều việc thực hiện trên môi trường số thì nhanh, toàn diện và hiệu quả hơn so với trong thế giới thực. Nhưng phải có các công cụ để thực hiện những việc đó, hoặc hỗ trợ thực hiện các việc đó. Trên không gian mạng (KGM) thì cũng có hạ tầng như là trong thế giới thực. Hạ tầng trên KGM là các Digital Utility” -Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Trong tương lại Việt Nam sẽ hình thành các trung tâm dữ liệu quy mô lớn, theo tiêu chuẩn xanh, bám sát quy hoạch vùng năng lượng. Bảo đảm các trung tâm dữ liệu được kết nối đồng bộ, dữ liệu liên thông và có khả năng dự phòng lẫn nhau, thúc đẩy phát triển công nghiệp dữ liệu lớn, nâng cao hiệu suất và khai thác hiệu quả các trung tâm dữ liệu hiện có.
Làm một đơn vị đầu ngành về hạ tầng viễn thông theo đại diện Cục Viễn thông cho hay quy hoạch hạ tầng TT&TT xác định, định hướng phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông, trong đó, mạng viễn thông băng rộng bảo đảm dung lượng lớn, tốc độ cao, công nghệ hiện đại.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đến năm 2030, phát triển thêm 4 - 6 tuyến cáp quang biển quốc tế. Theo nội dung quy hoạch, cần thực hiện triển khai, đầu tư thêm từ 4 - 6 tuyến cáp quang biển phục vụ nhu cầu trong nước và đáp ứng yêu cầu trung tâm dữ liệu khu vực, có điểm cập bờ tại các vị trí thuận lợi dọc bờ biển, ưu tiên các vị trí đã có các trạm cập bờ, có kết nối tới các huyện đảo, đảo lớn của Việt Nam. Trong đó, quy hoạch 1 tuyến cáp quang tại khu vực vịnh Thái Lan, dự kiến đặt trạm cập bờ tại địa điểm thuộc hành lang kinh tế Hà Tiên - Rạch Giá - Cà Mau, có kết nối ra huyện đảo Phú Quốc và các đảo lớn của Việt Nam, ưu tiên các đảo có điện lưới.
“Việc phát triển thêm 4-6 tuyến cáp quang biển quốc tế như phương án của quy hoạch sẽ đa dạng các hướng kết nối, cân bằng tải cho các tuyến cáp viễn thông trên biển hiện đang sử dụng, đảm bảo an toàn mạng lưới, tối ưu chất lượng dịch vụ, tiến tới làm trung gian trung chuyển lưu lượng Internet cho các nước trong khu vực”, đại diện Cục Viễn thông nói.
Thúc đẩy hạ tầng kết nối
Cục Viễn thông cũng đánh giá về cơ bản, hạ tầng kết nối của Việt Nam đang phát triển. Tuy nhiên, xét về hạ tầng điện toán đám mây, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn sơ khai cần phải phát triển hơn nữa. Hiện nay, hạ tầng điện toán đám mây của Việt Nam chủ yếu đang do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp, với khoảng 80% thị phần nằm trong tay các nhà cung cấp nước ngoài như Google, Amazon...
Với định hướng phát triển điện toán đám mây, hướng tới doanh thu từ thị trường điện toán đám mây tại Việt Nam đạt tối thiểu 1% GDP (khoảng 4,7 tỷ USD) vào năm 2025 là một con số tham vọng. Việc phấn đấu đạt mục tiêu trên sẽ mở ra thị trường lớn cho các doanh nghiệp trong nước.
Theo quy hoạch, Việt Nam sẽ có 100% cơ quan, doanh nghiệp nhà nước và trên 50% người dân sử dụng các dịch vụ điện toán đám mây do doanh nghiệp trong nước cung cấp. Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước sẽ có những giải pháp đồng hành cùng doanh nghiệp và sẽ ban hành nhiều chính sách phát triển điện toán đám mây trong nước.
Chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 đã nêu rõ tầm nhìn hạ tầng số là nền tảng để Việt Nam trở thành quốc gia số hiện đại, thông minh.
Thể hiện tinh thần quyết tâm của Chính phủ, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã chỉ đạo người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương ưu tiên nguồn lực, khẩn trương hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số năm 2024 và kế hoạch chuyển đổi số năm 2024 của bộ, tỉnh.
Gồm 4 thành phần chính là hạ tầng viễn thông và internet, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng vật lý - số, hạ tầng tiện ích số và công nghệ số như dịch vụ, hạ tầng số Việt Nam đã được xác định phải có dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng, phổ cập, bền vững, xanh, thông minh, mở và an toàn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Quan điểm phát triển hạ tầng số của Việt Nam đã được nêu rõ trong ‘Chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030’. Trong đó Nhà nước ưu tiên phát triển và bảo vệ hạ tầng số như hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, ngang tầm với các nước phát triển.
Bộ TT&TT cũng cho biết để phát triển hạ tầng số, tỷ lệ thuê bao điện thoại di động sử dụng điện thoại thông minh đạt 88,7% và tỷ lệ hộ gia đình có Internet cáp quang băng rộng đã đạt 82,3%. Tính đến đầu tháng 10, toàn quốc còn 761 thôn, bản lõm sóng di động. Trong đó, có 543 thôn, bản thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Trong 761 thôn, bản lõm sóng di động, có 637 thôn, bản đã có điện và 124 thôn, bản chưa có điện. Về triển khai hạ tầng cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng cố định, hiện vẫn còn 3.551 thôn chưa có cáp quang đến thôn.
Đối với vấn đề thương mại hóa dịch vụ viễn thông 5G, trong năm 2024, Bộ TT&TT đã tổ chức đấu giá thành công quyền sử dụng tần số vô tuyến điện với băng tần triển khai 5G và cấp phép cho Viettel, VNPT và MobiFone triển khai 5G thương mại. Từ giữa tháng 10, Viettel đã khai trương mạng 5G, với 6.500 trạm BTS phủ sóng 100% thủ phủ của 63/63 tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp, khu du lịch, cảng biển, sân bay, bệnh viện, đại học.
Cũng trong báo cáo chuyển đổi số quốc gia tháng 10/2024, Bộ TT&TT chỉ rõ một trong những hạn chế là khó khăn trong phát triển hạ tầng số. Cụ thể, vẫn còn 124 thôn chưa có điện lưới, hoặc đã có điện nhưng điện không đảm bảo cho hoạt động của trạm BTS; việc triển khai máy phát điện để cung cấp điện cho trạm BTS sẽ rất tốn kém cho doanh nghiệp, trong khi doanh thu lại không bù được chi phí. Ngoài ra, một số thôn có địa hình khó khăn, chi phí đầu tư truyền dẫn điện, cáp quang và xây dựng trạm tại những khu vực này rất tốn kém.
Để tháo gỡ khó khăn trên, Bộ TT&TT kiến nghị thời gian tới các bộ, ngành liên quan gồm Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Tập đoàn EVN cùng các địa phương tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng như địa điểm, điện lưới... để các doanh nghiệp viễn thông di động phủ sóng các vùng lõm. Cũng như đưa cáp quang tới các thôn bản, đáp ứng nhu cầu của các hộ gia đình góp phần hoàn thành mục tiêu chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.
Mục tiêu đến năm 2025: 100% số hộ gia đình có khả năng tiếp cận cáp quang khi có nhu cầu với 90% người sử dụng có thể truy nhập Internet cố định, tốc độ trung bình 200 Mb/s và có 90% các tổ chức kinh tế - xã hội như doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, trường học, bệnh viện, công sở tại khu vực thành thị có thể truy nhập Internet với tốc độ trung bình 1 Gb/s; Mạng băng rộng di động tốc độ tải xuống trung bình tối thiểu 40 Mb/s cho mạng 4G và 100 Mb/s cho mạng 5G và 100% dân số ở độ tuổi trưởng thành có điện thoại thông minh; 100% các khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm nghiên cứu, phát triển, đổi mới sáng tạo có thể truy nhập Internet với tốc độ tối thiểu 1Gb/s; 100% các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến cấp xã được kết nối vào mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước; 100% hạ tầng thiết yếu như giao thông, năng lượng, điện, nước, đô thị có khả năng tích hợp cảm biến và ứng dụng IoT; 100% cơ quan thuộc Chính phủ dùng hệ sinh thái điện toán đám mây phục vụ Chính phủ số và 70% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng dịch vụ điện toán đám mây do doanh nghiệp trong nước cung cấp; Việt Nam sẽ triển khai, đầu tư thêm 2 - 4 tuyến cáp viễn thông quốc tế; Triển khai các trung tâm dữ liệu quốc gia, tối thiểu 3 cụm trung tâm dữ liệu đa mục tiêu cấp quốc gia, các cụm trung tâm dữ liệu đa mục tiêu cấp vùng và 1 - 2 trung tâm dữ liệu khu vực phục vụ nhu cầu của các trung tâm tài chính Việt Nam và cho khu vực, quốc tế.
Mục tiêu đến năm 2030: Việt Nam sẽ có hạ tầng mạng truy cập băng rộng cố định được đầu tư, nâng cấp bảo đảm 100% người sử dụng có khả năng truy nhập với tốc độ trên 1Gb/s; Mạng băng rộng di động 5G phủ sóng 99% dân số, hướng tới phát triển mạng di động tiên tiến thế hệ tiếp theo; 100% cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và trên 50% người dân sử dụng các dịch vụ điện toán đám mây do doanh nghiệp trong nước cung cấp; Phát triển thêm 4 - 6 tuyến cáp quang biển quốc tế; Phát triển các cụm trung tâm dữ liệu quy mô lớn theo tiêu chuẩn xanh, kết nối và chia sẻ tạo thành mạng lưới các cụm trung tâm dữ liệu nhằm thúc đẩy công nghiệp dữ liệu lớn, trong đó hình thành tối thiểu 3 cụm trung tâm dữ liệu quốc gia.