Bộ chỉ số CĐS cấp bộ, cấp tỉnh, cấp quốc gia (Digital Index - DTI) để theo dõi, đánh giá một cách thực chất, khách quan và công bằng kết quả thực hiện CĐS hàng năm của các bộ, ngành (gọi chung là các bộ), các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là các tỉnh) và của cả nước trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình CĐS quốc gia.
BộchỉsốDTIđượcxâydựngtheoquanđiểmgắnliềnvớimụctiêu,địnhhướng,quanđiểmvàcácnhiệmvụ,giảiphápthựchiệnChươngtrìnhCĐSquốcgia,cótínhcơbản,phùhợpthựctếvàcóýnghĩađánhgiásátthực,kháchquankếtquảthựchiệnCĐShàngnămtạicácbộ,cáctỉnh
BộchỉsốđánhgiáđượcmứcđộCĐScủacácbộ/tỉnh,đồngthờihìnhthànhkhodữliệusốsátthựcvềhoạtđộngchínhphủsố,kinhtếsốvàxãhộisốtrêntoànquốc.Bộchỉsốcũngcốgắngtăngcườngcáctiêuchíđánhgiátheophươngphápđiềutraxãhộihọc,phươngphápphântíchsắctháithôngtintrênkhônggianmạngnhằmtăngcườngtínhkháchquan,trungthựccủachỉsốđánhgiá.
Bộchỉsốđượccấutrúctheo3trụcộtgồm:chínhquyềnsố,kinhtếsốvàxãhộisố.Mỗitrụcộtgồm7chỉsốchính:chỉsốđánhgiávềchuyểnđổinhậnthức,chỉsốđánhgiávềkiếntạothểchế,chỉsốđánhgiávềpháttriểnhạtầngvànềntảngsố,chỉsốđánhgiávềthôngtinvàdữliệusố,chỉsốđánhgiávềhoạtđộngCĐS,chỉsốđánhgiávềantoànanninhmạng,chỉsốđánhgiávềđàotạovàpháttriểnnhânlực.Mỗichỉsốchínhcónhữngchỉsốthànhphầnkhácnhauvàtrongmỗichỉsốthànhphầncócáctiêuchí.
Bộchỉsốcócấutrúc3cấp:ChỉsốDTIcấpBộ,ChỉsốDTIcấptỉnh,vàChỉsốDTIquốcgia,trongđócấpbộ/tỉnhnhằmtheodõi,đánhgiá,xếphạngmộtcáchthựcchất,kháchquanvàcôngbằngkếtquảthựchiệnCĐShàngnămcácbộ,tỉnh.ChỉsốDTIquốcgiathìkhôngchấmđiểm,xếphạng,mànhằmcungcấpthôngtinvềkếtquảCĐSchungcủacảnướcđểbáocáoChínhphủ,Thủtướngvàphụcvụcáccơquan,tổchứcliênquancũngnhưchocáctổchứcquốctếsửdụngkhiđánhgiácácchỉsốtoàncầuliênquannhưEGDI,IDI,GCI,GII.
Những điểm cần lưu ý về chỉ số DTI cấp Bộ/Tỉnh
ChỉsốDTIcấpBộcó7chỉsốchính,41chỉsốthànhphầnvà111tiêuchí,trongđósốtiêuchídựavàocácsốliệu,báocáothốngkêlà109vàtiêuchí,đánhgiáxãhộihọccó2tiêuchí.Vớicấptỉnh,cũngcó7chỉsốchính,108chỉsốthànhphầnvới306tiêuchí,trongđócó251tiêuchítheođiềutrathốngkêhoặclàbáocáovà55tiêuchítheođiềutraxãhộihọc.
ChỉsốDTIcấptỉnhcó3trụcột:chínhquyềnsố(400điểm),kinhtếsố(300điểm),xãhộisố(300điểm).Trongmỗitrụcộtnàycó3phươngphápđánhgiá:đánhgiátheosốliệubáocáo,thốngkê,điềutra(chiếm80%);đánhgiátheođiềutratrênmạnglà10%vàđánhgiátheophỏngvấnchuyêngialà10%.Cácchỉsốkinhtếsố,xãhộisốcũngtươngtự.
Cácchỉsốchínhcóchỉsốnhậnthức,gồm4chỉsốthànhphầnvới13tiêuchí;chỉsốKiếntạothểchếthìcó4chỉsốthànhphầnvới16tiêuchí;chỉsốHạtầngvànềntảngsốcó10chỉsốthànhphần,28tiêuchí;chỉsốthôngtinvàdữliệusốcó3chỉsốthànhphầnvới16tiêuchí;chỉsốHoạtđộngchínhquyềnsốcó16chỉsốthànhphầnvới39tiêuchí;chỉsốAntoànanninhmạngcó5chỉsốthànhphầnvới9tiêuchí;hỉsốĐàotạokỹnăng,pháttriểnnhânlựccó3chỉsốthànhphầnvới13tiêuchí.Cáctrụcộtkinhtếsố,xãhộisốcũngtươngtự.
Cụ thể hơn, trong chỉ số thành phần về chuyển đổi nhận thức, có các nhóm tiêu chí như tuyên truyền, phổ biến về chính quyền số, hay trong các chỉ số kinh tế số, xã hội số, có các yêu cầu như có chuyên mục CĐS trên Trang/Cổng thông tin điện tử (TTĐT) hoặc có chuyên mục CĐS của Đài PTTH, hoặc có tài liệu tuyên truyền cho người dân. Cũng trong chỉ số này, lần đầu tiên đưa ra tiêu chí đánh giá sự quan tâm của người đứng đầu bởi Chương trình CĐS quốc gia nhấn mạnh người đứng đầu phải chịu trách nhiệm chính về CĐS các bộ/tỉnh và vì vậy, Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh phải là trưởng Ban Chỉ đạo về chính quyền điện tử và CĐS. Chỉ số cũng đưa ra các chỉ số thành phần với tiêu chí đánh giá về người đứng đầu như chủ trì được bao nhiêu cuộc họp hay là các văn bản đã được ban hành, đánh giá về chủ trương, định hướng của Đảng, trong đó đánh giá các Nghị quyết của tỉnh/ thành uỷ cũng như các chủ trương của HĐND về cả 3 trụ cột. Đặc biệt, sẽ có điều tra xã hội học về hiểu biết của CBCNVC đối với CĐS.
Chỉ số kiếntạo thểchế có nhómtiêu chívề kếhoạch,chươngtrình,đềánvềCĐS.Trongphầnnàycũngđánhgiávềmôitrườngpháplý,cơchếchínhsáchvềCĐS,đặcbiệtnhấnmạnhchoápdụngcôngnghệmớitrongchínhquyềnsố,cũngnhưbanhành,triểnkhaicáckếhoạch,cậpnhậtđịnhdanh,kiếntrúcchínhquyềnđiệntử…Phầnchỉsốnàycũngđềcậpđếnviệctổchức,nhânsựchuyêntráchvềCĐS,CNTT, trongđócógiaonhiệmvụchoBanchỉđạoCNTTchỉđạocôngtácCĐS,cũngnhưgiaonhiệmvụchoSởTT&TTchủtrìcôngtácCĐS.TrongChỉsốkiếntạothểchế,cũngnhấnmạnhchichoCNTTvàtrongchiếnlượcchínhphủsốthìcóđặtmụctiêulàmỗitỉnh không chi không ít hơn 10% trong tổng chi ngân sách của tỉnh cho CNTT, CĐS.
Vềchỉsốhạtầngvànềntảngsốthìtrongchínhquyềnsốđềcậptrangbịmáytính,mạngLAN,WAN,Internet.Trongkinhtếsốđánhgiávềhạtầngbưuchính,logistics,4G,cápquangđếnhộgiađình…vàtrongxãhộisốcũngtươngtự,đánhgiáhạtầngxácthựcđiệntử,chữkýđiệntửchongườidân,DN.Cũngtrongchỉsốnày,phầnchínhquyềnsốđánhgiá IPv6,trongkinhtếsố-xãhộisốđánhgiácổng/trangTTĐT,hạtầngthanhtoánsố,chữkýđiệntửvànềntảngtíchhợpchiasẻCSDLdùngchungLGSP, trungtâmgiámsátantoànthôngtin(ATTT)SOCcũngnhưđiệntoánđámmây,nềntảngthanhtoántrựctuyếndiđộng.
Về chỉ số thông tin, dữ liệu số sẽ đánh giá về sự sẵn sàng của dữ liệu, trong đó lưu ý đối với các tỉnh về chỉ số có phê duyệt phụ lục danh mục các hạng mục dữ liệu cấp tỉnh. Chỉ số này được xét đánh giá nhằm mục đích làm căn cứ để có mặt bằng chung của dữ liệu của các tỉnh trong việc đánh giá về dữ liệu số. Theo đó, các tỉnh cần quan tâm đến dữ liệu này để thúc đẩy.
Cũngtheochỉsốnày,mứcđộsẵnsàngmởdữliệucủatỉnhsẽđượcđánhgiá,còntronghạngmụcxãhộisố-kinhtế,chỉsốnàyđượcđánhgiáquacáchạngmụcliênquanđếnngườidân,doanhnghiệp(DN).Ngườidân,DNsẽđượcđánhgiávềmứcđộkhaithácsửdụngdữliệu.Việcđánhgiánàychủyếuthôngquađiềutraxãhộihọc.
Trong chỉ số thông tin dữ liệu, các công cụ phân tích dữ liệu lớn được sử dụng trong CQNN, cũng như thực hiện hiệu quả của dữ liệu hiện CQNN cung cấp cho nhà DN, người dân cũng được đánh giá. Phương pháp đánh giá liên quan đến DN, người dân chủ yếu thông qua điều tra xã hội học.
Về chỉ số đánh giá hoạt động chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, có khá nhiều hoạt động như trong chính quyền số có hoạt động liên quan đến thư điện tử, trong kinh tế số thì có hoạt động phát triển DN công nghệ số hay trong xã hội học có chỉ số đánh giá về sử dụng thiết bị số, truy cập mạng của người dân, hoặc là trong chính quyền số thì có hoạt động quản lý các văn bản điều hành. Trong kinh tế số có các hoạt động về kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT), trong xã hội số thì có sử dụng dịch vụ số, khai thác dịch vụ số của người dân. Ngoài ra, còn đánh giá hoạt động chữ ký điện tử, số, dịch vụ số cơ bản, các nền tảng phục vụ người dân, DN trên địa bàn.
Đánh giá về hệ thống thông tin báo cáo, trong kinh tế số có đánh giá đóng góp của kinh tế số đối với GDP, hoặc doanh thu trong lĩnh vực CNTT. Trong xã hội số có đánh giá người dân sử dụng các ứng dụng CNTT trong nông nghiệp thông minh, xã thông minh và đánh giá các hoạt động 1 cửa điện tử, cổng dịch vụ công (DVC) trực tuyến. Trong kinh tế số, đánh giá doanh thu trong các lĩnh vực.
Theo Cục Tin học hoá, nhiều chỉ số mới được đưa vào chi tiết như chỉ số như DVC phát sinh hồ sơ, tỷ lệ hồ sơ phát sinh trực tuyến, mức độ hài lòng khi sử dụng DVC. Đây là những vấn đề mới.
Chỉ số thứ 6 là an ninh mạng có các chỉ số về triển khai an toàn an ninh mạng theo mô hình 4 lớp trong chính quyền điện tử. Trong kinh tế số có đánh giá an toàn an ninh mạng trong các DN, cũng như mức độ an toàn tin cậy của người dân, máy tính của người dân.
Đánh giá ATTT cũng được đánh giá ở cả 3 khối chính quyền, người dân, DN. Bên cạnh đó, là đánh giá chỉ số đánh giá hệ thống ATTT theo cấp độ của Nghị định 2016 số 85/2016/NĐ- CP của Thủ tướng Chính phủ, cũng như tốc độ lây nhiễm mã độc, khả năng ứng cứu sự cố sự cố tấn công mạng của cơ quan nàh nước (CQNN), DN, chỉ số về đào tạo, nguồn nhân lực, trong đó có đánh giá về lực lượng chuyên trách về CNTT cũng như đánh giá về đào tạo kỹ năng số trong CQNN.
Trong kinh tế số, còn có đánh giá về nguồn nhân lực công nghệ số kinh doanh số trên địa bàn, cũng như đào tạo nguồn nhân lực công nghệ số của các đơn vị trên địa bàn; đánh giá trình độ giáo dục của người dân cũng như trình độ, kỹ năng số của người dân.
Trong khi đó, theo Cục Tin học hoá, chỉ số DTI cấp Bộ cũng tương tự cấp tỉnh nhưng mỗi Bộ là một lĩnh vực, ngành hẹp, vì vậy, không phân ra chính quyền số, xã hội số, kinh tế số mà mỗi Bộ đều gộp chung lại thành 1 bộ chỉ số chung là cũng có đánh giá theo số liệu điều tra thống kê, đánh giá qua không gian mạng và đánh giá của chuyên gia. Nhưng khác với cấp tỉnh, bởi cấp tỉnh được đánh giá thang điểm là 1000 điểm thì cấp Bộ chỉ dùng thang điểm 500 điểm để tính tương đồng giữa các điểm tiêu chí là hài hoà giữa cấp bộ/tỉnh.
Cấp bộ cũng có chỉ số về nhận thức, trong đó có 3 chỉ số thành phần với 10 tiêu chí. Chỉ số Kiến tạo thể chế có 4 chỉ số thành phần với 17 tiêu chí. Chỉ số Hạ tầng nền tảng số có 8 chỉ số thành phần với 18 tiêu chí. Chỉ số Thông tin và dữ liệu số có 3 chỉ số thành phần với 14 tiêu chí. Chỉ số Hoạt động của CĐS có 16 chỉ số thành phần với 14 tiêu chí. An toàn an ninh mạng 5 chỉ số thành phần với 9 tiêu chí. Chỉ số Đào tạo phát triển nhân lực có 2 chỉ số thành phần với 9 tiêu chí.
Đánh giá chuyển đổi nhận thức cấp bộ được đánh giá theo các tiêu chí về tuyên truyền, phổ biến, quan tâm của người đứng đầu, chủ trương chiến lược về CĐS, chính phủ số, kiến tạo thể chế có kế hoạch, chương trình, đề án về CĐS và chính phủ số, có hành lang pháp lý, chính sách về CĐS. Đặc biệt, theo Cục Tin học hoá, đánh giá DTI cấp Bộ, phần thể chế được nhấn mạnh hơn phần chính sách, đặc biệt là các "sandbox" trong chính sách.
Đánh giá kiến tạo thể chế cấp Bộ cũng có tiêu chí đánh giá nhân sự chuyên trách CNTT, cũng như ngân sách CNTT của Bộ. Về Hạ tầng số, ở cấp Bộ đánh giá về hạ tầng kết nối, ứng dụng IPv6, trung tâm dữ liệu, sử dụng điện toán đám mây, cũng như nền tảng tích hợp dữ liệu cấp Bộ LGSP. Trung tâm giám sát điều hành an toàn an ninh mạng, nền tảng thanh toán trực tuyến cũng được đánh giá.
Về chỉ số thông tin, dữ liệu số ở cấp bộ có đánh giá về sự sáng tạo của dữ liệu có nghĩa là các CSDL trong ngành, cấp quốc gia do Bộ chủ trì, kết nối chia sẻ dữ liệu cũng như là dữ liệu mở, sử dụng các công cụ phân tích dữ liệu lớn.
Về chỉ số hoạt động CĐS cấp bộ đánh giá về sử dụng thư điện tử, hệ thống quản lý văn bản điều hành, chữ ký điện tử, chữ ký số, các ứng dụng cơ bản, hệ thống báo cáo, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến. Phần lớn nội dung này các Bộ đã đạt nhưng một số đơn vị cũng cần phải đánh giá tiếp.
Về hoạt động CĐS còn có hoạt động kiểm tra qua môi trường số, hệ thống 1 cửa điện tử, cổng DVC, tỷ lệ DVC trực tuyến, tỷ lệ phát sinh hồ sơ trực tuyến, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến. Bên cạnh đó, đánh giá mức độ hài lòng DVC khi sử dụng DVC của người dân đối với các Bộ và việc thực hiện tiếp nhận, trả kết quả qua cũng như tiếp nhận, trả kết quả TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích cũng như Cổng TTĐT cũng như sự tham gia của người dân, DN đối với Cổng TTĐT của Bộ.
Về ATTT mạng, đánh giá về triển khai mô hình 4 lớp để bảo vệ hệ thống thông tin theo cấp độ, mức độ lây nhiễm mã độc, tỷ lệ xử lý tấn công mạng, tỷ lệ nâng cao năng lực ứng cứu sự cố. Về nhân lực, đào tạo kỹ năng, có đánh giá về năng lực cán bộ chuyên trách CNTT, đào tạo kỹ năng số.
Theo Cục Tin học hoá, với các số liệu thu thập được từ đánh giá cấp Bộ, tỉnh, sẽ được tổng hợp để đưa thành chỉ số CĐS quốc gia cũng theo 3 trụ cột. Tuy nhiên, ở cấp quốc gia không có xếp hạng.
Triển khai, đánh giá trong thời gian tới
Cũng theo Cục Tin học hoá, việc triển khai đánh giá CĐS cấp bộ/tỉnh sẽ thực hiện theo 2 lớp, tức là các bộ/tỉnh sẽ tự tập hợp dữ liệu, đánh giá chỉ số của mình theo hướng dẫn thang điểm do Bộ TT&TT cung cấp. Bộ TT&TT cũng dựa trên báo cáo của các bộ/tỉnh để đưa ra xác thực, thẩm định của mình để đếm sai số để điều chỉnh và sẽ có điểm số do Bộ TT&TT chấm. Sau đó, Bộ TT&TT sẽ tổng hợp lại theo tỷ lệ để đưa ra chỉ số chung.
Ngoài ra, việc đánh giá còn được đo lường trên không gian mạng chiếm 10%, đánh giá của chuyên gia chiếm 10%. Cục Tin học hoá sẽ triển khai 1 Cổng TTĐT để các bộ/tỉnh nhập dữ liệu thay cho nhập dữ liệu bản giấy được gửi lên cho Bộ TT&TT như trước đây. Ở các bộ/tỉnh sẽ được cấp 2 tài khoản (tài khoản của chuyên viên nhập dữ liệu theo các chỉ số đánh giá và tài khoản của lãnh đạo được giao phụ trách duyệt dữ liệu cho nhân viên nhập dữ liệu và được gửi đến Cục Tin học hoá). Cục Tin học hoá sẽ thành lập Hội đồng để đánh giá các chỉ số này và Hội đồng có cử đại diện theo từng nhánh kinh tế số, chính phủ số, xã hội số theo từng trục. Hội đồng có các tổ công tác để theo dõi các chỉ số này, xác minh để đảm bảo các con số này không có sai sót và sẽ đưa vào hệ thống. Bộ TT&TT cũng sẽ có bộ phận xác thực thông tin, có những thông tin có thể kiểm soát được qua hệ thống giám sát CPĐT của Bộ TT&TT, cũng như Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng của Bộ.
Những thông tin sẽ được xác thực lại, điều chỉnh đưa vào hệ thống và chấm điểm riêng theo quan điểm của Bộ. Quan điểm các Sở TT&TT tự chấm là quan điểm riêng và sẽ có tỷ lệ tính toán các thông tin này. Cuối cùng, Hội đồng sẽ có tổng hợp các số liệu từ điều tra xã hội học, trên mạng và từ phỏng vấn chuyên gia để có một đánh giá chung tổng thể và Hội đồng quyết định điểm chung cho từng tiêu chí. Hội đồng cũng sẽ quyết định công bố điểm này trên hệ thống, các bộ/tỉnh thì có thể vào hệ thống để biết được xếp hạng. Việc đánh giá này không chỉ đánh giá 1 năm/lần. Hội đồng có thể đánh giá hàng quý nếu các bộ, tỉnh có số liệu cập nhật thì hàng quý xếp hạng cũng sẽ thay đổi.
Cục Tin học hoá cho biết: Bộ chỉ số này sẽ được triển khai đánh giá từ năm 2020 để đến tháng 4/2021 dự kiến công bố. Cục Tin học hoá mong muốn các đơn vị chuyên trách CNTT các Bộ, các Sở TT&TT nghiên cứu chi tiết Bộ chỉ số này không phải chỉ để đánh giá mà còn khi xây dựng chương trình, kế hoạch CĐS của bộ/tỉnh có thể nghiên cứu Bộ chỉ số để đưa các nội dung liên quan phù hợp vào trong các kế hoạch thực hiện để thăng hạng chỉ số của bộ/tỉnh mình.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 15+16 tháng 11/2020)