Cấp thiết CĐS khu vực công hướng tới chính phủ số

Hoàng Linh| 30/09/2022 08:17
Theo dõi ICTVietnam trên

Đại dịch COVID-19 đã cho thấy còn nhiều hạn chế trong các hệ thống của chính phủ. Các thể chế khu vực công hiện tại không được thiết kế để thích ứng nhanh chóng với những thay đổi đột ngột hoặc những cuộc khủng hoảng bất ngờ trong xã hội.

Ngày 28/9/2022, Liên Hợp Quốc đã công bố khảo sát về chính phủ điện tử (CPĐT) năm 2022. Với chủ đề của phiên bản thứ 12 là "Tương lai của Chính phủ số", khảo sát xem xét cách thức chính phủ số có thể tạo điều kiện cho các chính sách và dịch vụ tích hợp ở 193 quốc gia thành viên.

Khảo sát hỗ trợ các nỗ lực của các quốc gia trong việc cung cấp những dịch vụ số hiệu quả, trách nhiệm và bao trùm cho tất cả mọi người, góp phần thu hẹp khoảng cách số và không để ai bị bỏ lại phía sau. Khảo sát xếp hạng chính phủ số của 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó Việt Nam xếp hạng thứ 86.

Khảo sát cũng nghiên cứu sâu về xu hướng chuyển đổi số (CĐS) khu vực công và đề xuất các cách tiếp cận để CĐS khu vực này hướng tới chính phủ số.

Cấp thiết CĐS khu vực công

Theo khảo sát, cách duy nhất mà các chính phủ có thể tồn tại trong kỷ nguyên số là đón nhận sự thay đổi và tạo ra một nền văn hóa đổi mới, trong đó mọi người dân và tổ chức thử nghiệm, học hỏi và phát triển. CĐS thay đổi hiện trạng, đòi hỏi các chính phủ phải áp dụng các công nghệ đổi mới giúp chính phủ trở nên nhạy bén hơn, trách nhiệm, linh hoạt và hiệu quả hơn.

Văn hóa của khu vực công cần phải thay đổi, trong đó ưu tiên nâng cao tính linh hoạt và năng suất cho nhân viên chính phủ, đồng thời cải thiện các phương pháp tiếp cận và kết quả lấy người dân làm trung tâm. CĐS trong khu vực công không chỉ là nâng cao hiệu quả quy trình trong các tổ chức chính phủ mà cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường cung cấp dịch vụ công (DVC) và tạo cơ hội cho sự tham gia của cộng đồng. CĐS cho phép người dân nói lên tiếng nói của mình và có cơ hội đóng góp, cộng tác trong quản trị và đáp ứng các nhu cầu dịch vụ của người dân, doanh nghiệp.

Một trong những điểm khác biệt lớn giữa khu vực tư và công là khu vực công không thể lựa chọn khách hàng của mình, khu vực công phải phục vụ tất cả mọi người. Theo đó, tạo ra và duy trì một hệ thống năng động phục vụ tất cả mọi người là một thách thức lớn.

Cùng với đó, đại dịch COVID-19 đã buộc các nước phải tăng tốc số hoá, vì vậy tạo điều kiện cho công chúng tham gia vào quản trị. Ví dụ, gần đây, Đan Mạch đã đưa ra sáng kiến tham gia điện tử (e-participation initiative), theo đó, công dân có thể đưa ra đề xuất cho luật mới dưới hình thức kiến nghị điện tử. Sáng kiến được gọi là "đề nghị của công dân" do quốc hội Đan Mạch quản lý.

Cấp thiết CĐS khu vực công hướng tới chính phủ số - Ảnh 1.

Đan Mạch luôn duy trì thứ hạng nhất về xếp hạng CPĐT (Ảnh: govinsider)

Dữ liệu chính phủ phải m

Xã hội số chủ yếu dựa vào dữ liệu. Các tổ chức công đang làm việc nhằm tối ưu hóa dữ liệu bằng cách phát triển các phương pháp tiếp cận mới để thu thập, đối chiếu, phân tích và phổ biến dữ liệu.

Việc cung cấp cho công chúng dữ liệu, thông tin và tài nguyên số của chính phủ là rất quan trọng không chỉ để cải thiện hoạt động hành chính và cung cấp DVC mà còn để tương tác với cộng đồng và xây dựng lòng tin. Các chính phủ đang nỗ lực củng cố lòng tin bằng cách công bố các bộ dữ liệu ở định dạng mở miễn phí cho công chúng sử dụng; truy cập vào dữ liệu mở của chính phủ giúp ngăn chặn thao túng thông tin và đóng góp vào các nỗ lực của khu vực công để tăng cường tính minh bạch, chống tham nhũng và tăng cường trách nhiệm giải trình của khu vực công. Ngày càng có nhiều sự quan tâm đến phần mềm mã nguồn mở và cách nó có thể được sử dụng để phát triển.

Phong trào dữ liệu mở của chính phủ sẽ tiếp tục được thúc đẩy khi khả năng tiếp cận thông tin trở thành động lực chính của sự phát triển. Giao diện lập trình ứng dụng mở (API) sẽ tạo điều kiện truy cập hiệu quả hơn vào thông tin khu vực công thông qua các ứng dụng thân thiện với người dân.

Thế giới hiện đang chứng kiến sự gia tăng phát triển xung quanh API và sự gia tăng của dữ liệu mở nói chung. Việc tích hợp giữa các DVC trực tuyến và các ứng dụng di động sẽ ngày càng trở nên phổ biến và các API mở đã và đang xuất hiện đặc biệt với sự gia tăng số hóa các quy trình tại văn phòng, giúp các cơ quan chính phủ cung cấp quyền truy cập vào thông tin cốt lõi hoặc các hệ thống giao dịch hiệu quả hơn với giao diện thân thiện.

Công nghệ điện toán đám mây (ĐTĐM)

Nhiều chính phủ tiến bộ đã và đang triển khai thành công các dịch vụ số bằng cách sử dụng nhiều cách tiếp cận và công nghệ mới.

Trong số các giải pháp được các quốc gia thực hiện CĐS áp dụng, công nghệ đám mây đang đóng một vai trò quan trọng, cho phép các cơ quan chính phủ đơn giản hóa và tối ưu hóa việc quản lý tài nguyên CNTT và tạo điều kiện cho việc áp dụng các công nghệ số mới. Khu vực công đã chuyển sang sử dụng các dịch vụ đám mây để tăng cường sự linh hoạt, khả năng mở rộng và hiệu quả chi phí trong thời đại được đánh dấu bằng tốc độ tăng trưởng theo cấp số nhân về khối lượng dữ liệu được xử lý.

Công nghệ đám mây đáp ứng cơ sở hạ tầng tính toán có thể được mở rộng nhanh chóng và tự động để đáp ứng nhu cầu tăng cao, cũng như có thể xử lý dữ liệu và hệ thống của các cơ quan khác nhau một cách đồng thời và an toàn - điều khó đạt được khi sử dụng các trung tâm dữ liệu truyền thống. Các công cụ mới đang xuất hiện cho phép chính phủ nâng cao chất lượng, hiệu quả và hiệu lực của các DVC và hỗ trợ tạo ra các cơ hội phát triển mới cho việc cung cấp dịch vụ.

Các chính phủ trên thế giới đang chuyển sang sử dụng công nghệ ĐTĐM cũng để hỗ trợ các nỗ lực ứng phó với thảm họa thiên tai và nhân đạo như tạo bản đồ trực tuyến, sao lưu và bảo mật dữ liệu có giá trị cho đến thiết lập mạng lưới các cảm biến được kết nối với đám mây có thể cảnh báo sớm cho cộng đồng trước khi lở đất hoặc động đất.

Nhiều cấu hình đám mây khác nhau được sử dụng, bao gồm đám mây công cộng, đám mây riêng, đám mây kết hợp và đám mây đa nhà cung cấp.

Một đám mây công cộng được đặc trưng bởi việc chia sẻ cơ sở hạ tầng; nó cũng có thể được gọi là đám mây thương mại, vì cơ sở hạ tầng thuộc sở hữu của nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba có toàn quyền kiểm soát hệ thống của họ và cung cấp chúng cho khách hàng trả tiền (bao gồm các chính phủ khác nhau trên thế giới), sau đó sẽ chia sẻ quá trình xử lý dung lượng, ứng dụng và lưu trữ. Giải pháp này có các ưu điểm chính: khả năng tính toán gần như không giới hạn; phát triển hệ sinh thái; khả năng phục hồi; hiệu quả về chi phí.

Đám mây riêng có thể triển khai tại chỗ hoặc có thể được quản lý tại các TTDL của bên thứ ba, nơi chính phủ được cung cấp các nguồn lực chuyên biệt. Một trong những lợi thế của đám mây riêng là chính phủ có thể kiểm soát tốt hơn các đặc điểm của cơ sở hạ tầng và dịch vụ, đặc biệt là vấn đề bảo mật. Tuy nhiên, nó có một nhược điểm lớn là cơ sở hạ tầng có thể không cung cấp khả năng mở rộng cần thiết để đáp ứng nhu cầu tăng cao không lường trước được.

Ngày càng nhiều chính phủ các nước đang tìm hiểu mô hình kết hợp, tích hợp đám mây công cộng và riêng trong một hệ sinh thái duy nhất được tạo thành từ các môi trường được kết nối với nhau, trong đó các tài nguyên khác nhau được cung cấp từ một hoặc cả hai cơ sở hạ tầng đám mây tùy thuộc vào nhu cầu của chính phủ.

Mô hình này cho phép các chính phủ tận dụng các nguồn tài nguyên quy mô lớn có sẵn trên đám mây công cộng trong khi vẫn duy trì toàn quyền sở hữu và kiểm soát các dữ liệu và dịch vụ nhạy cảm nhất. Trong môi trường kết hợp, việc sử dụng và phân phối tài nguyên tính toán từ các đám mây riêng và công cộng thường là bán tự động và minh bạch đối với người dùng.

Thuật ngữ "đa đám mây" (hoặc đám mây nhiều nhà cung cấp) đề cập đến việc sử dụng đồng thời nhiều dịch vụ lưu trữ và ĐTĐM công cộng và/hoặc riêng trong một kiến trúc duy nhất để triển khai các dịch vụ và ứng dụng người dùng khác nhau. Cách tiếp cận này thường tối ưu hóa các khả năng của cơ sở hạ tầng đám mây, tiết kiệm chi phí và giảm sự phụ thuộc vào bất kỳ nhà cung cấp đám mây duy nhất nào.

Các giải pháp đám mây đã được triển khai thành công tại nhiều quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới, bao gồm Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Singapore. Tuy nhiên, vẫn còn một số lo ngại về vấn đề bảo mật và bảo vệ dữ liệu. Một trong những mối quan tâm lớn về công nghệ đám mây là các chính phủ đang nhường quyền kiểm soát quản lý dữ liệu cho bên thứ ba, điều này đòi hỏi mức độ tin cậy cao rằng các nhà cung cấp dịch vụ đám mây có thể tuân thủ các quy tắc và quy định về dữ liệu và cung cấp mức độ bảo mật cần thiết.

Trước khi áp dụng bất kỳ giải pháp đám mây nào, các chính phủ cần xác định những gì có thể và không thể thực hiện thông qua đám mây và liệu có cần chính sách cũng như khuôn khổ quy định mới để tối ưu hóa hoạt động và bảo mật hay không. Các chính phủ cần xây dựng một chiến lược quốc gia xác định giải pháp đám mây nào hỗ trợ tốt nhất cho các hoạt động của chính phủ dựa trên dữ liệu - một chiến lược đảm bảo quyền tự chủ và khả năng phục hồi chiến lược, giải quyết các mối lo ngại về an ninh và cho phép các Chính phủ giữ toàn quyền kiểm soát đối với dữ liệu và dịch vụ.

Các lĩnh vực của quốc phòng, năng lượng và tư pháp có mức độ chấp nhận rủi ro và sai sót thấp hơn nên không muốn thử nghiệm công nghệ do lo ngại về bảo mật và tính dễ bị tổn thương đặc biệt của họ trước những thách thức và gián đoạn đi kèm với sự thay đổi thể chế. Ngay cả một lỗi vận hành nhỏ hoặc vi phạm dữ liệu cũng có thể gây ra thiệt hại có tác động tiêu cực lâu dài. Các chính phủ chuyển đổi sang dịch vụ đám mây cần giải quyết những mối quan tâm này - đặc biệt là những mối quan tâm liên quan đến bảo mật dữ liệu - thông qua lập kế hoạch trước. Điều cần thiết là các hệ thống và biện pháp bảo mật được quản lý tập trung, cập nhật thường xuyên phải được áp dụng trên diện rộng.

Cấp thiết CĐS khu vực công hướng tới chính phủ số - Ảnh 2.

Các vấn đề về an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu quyền riêng tư

Đã có một sự gia tăng đáng lo ngại về tội phạm mạng và tấn công mạng trong những năm gần đây. Các hoạt động độc hại trong không gian mạng đang làm xói mòn lòng tin kỹ thuật số đối với các chính phủ và ở các quốc gia. Cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia - được đặc trưng bởi sự kết nối kỹ thuật số ngày càng tăng trong các lĩnh vực như tài chính, điện lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe - đang ngày càng bị nhắm mục tiêu. Các cuộc tấn công mạng này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây ra vi phạm và gián đoạn dữ liệu ảnh hưởng đến thiết bị, quy trình và hoạt động kinh doanh.

Mặc dù các ước tính toàn cầu về thiệt hại do hoạt động mạng độc hại gây ra rất khác nhau, nhưng hậu quả này thường lên tới hàng tỷ đô la chi phí sửa chữa cơ sở hạ tầng, mất năng suất và tổn thất tài chính cá nhân.

Theo Chỉ số An ninh mạng toàn cầu ITU (GCI) 2020, các rủi ro liên quan đến các vấn đề quyền riêng tư đang tăng lên khi việc sử dụng ngày càng nhiều các thiết bị được kết nối mới và những ràng buộc xung quanh cách các chính phủ sử dụng dữ liệu riêng tư. Tội phạm mạng là một mối quan tâm ngày càng tăng đối với các quốc gia ở mọi cấp độ phát triển. Mặc dù 156 quốc gia (80%) đã ban hành luật chống tội phạm mạng, nhưng mô hình khác nhau tùy theo khu vực: châu Âu có tỷ lệ chấp nhận cao nhất (91%) và châu Phi thấp nhất (72%). Bối cảnh tội phạm mạng ngày càng phát triển và những thiếu hụt về kỹ năng dẫn đến là một thách thức đáng kể đối với các cơ quan thực thi pháp luật và công tố viên, đặc biệt là đối với các cơ quan thực thi pháp luật xuyên biên giới.

Không phải tất cả các chính phủ đều có thông tin hoặc khả năng để tận dụng những cơ hội lớn hoặc giảm thiểu những rủi ro cố hữu liên quan đến thời đại số. Sự phát triển của số hóa đang vượt xa khả năng của các chính phủ trong việc phát triển các khuôn khổ hoạch định chính sách và quy định có liên quan. Các quốc gia kém phát triển (LDC), các nước đang phát triển không giáp biển (LLDC) và các tiểu quốc đảo đang phát triển (SIDS) phải đối mặt với những thách thức cụ thể về vấn đề này, khiến dễ bị tấn công mạng.

Truyền thông cho rằng vi phạm bảo mật dữ liệu đang xảy ra ngay cả ở cấp cao nhất và thường gây ra hậu quả nghiêm trọng, với các cuộc tấn công mạng quốc gia và quốc tế đe dọa quyền riêng tư, an toàn tài chính và an ninh của toàn xã hội.

Trong nhiều trường hợp, các thực thể khu vực công và các thành viên của khu vực tư nhân (đặc biệt là các cá nhân và doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa) đơn giản là không thể đối đầu với sự tinh vi kỹ thuật của tội phạm mạng và trở thành con mồi của ransomware (được thiết kế để tống tiền bằng cách chặn truy cập tới tệp hoặc hệ thống máy tính), phần mềm độc hại (được thiết kế để truy cập trái phép vào tệp hoặc gây hư hỏng máy tính) hoặc lừa đảo (gửi email lừa đảo giống email từ các nguồn có uy tín với mục đích lấy cắp dữ liệu nhạy cảm). Khi ngày càng có nhiều hoạt động xã hội và kinh tế diễn ra trực tuyến, tầm quan trọng của quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu ngày càng được công nhận.

Mối quan tâm không kém là việc thu thập, sử dụng và chia sẻ thông tin cá nhân cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng thông báo hoặc đồng ý. 137 trong số 194 quốc gia đã ban hành luật để đảm bảo việc bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư. Ở Liên minh châu Âu, Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) yêu cầu các công ty phải có sự đồng ý rõ ràng của các cá nhân trước khi thu thập hoặc sử dụng dữ liệu của họ.

Châu Phi và châu Á cho thấy mức độ chấp nhận khác nhau với 61 và 57% các quốc gia đã thông qua các luật như vậy. Tỷ lệ này ở các quốc gia kém phát triển nhất chỉ chiếm 48%. Hiện tại, các luật và quy định về bảo vệ dữ liệu trên thế giới còn thiếu tính thống nhất, điều này có thể tạo ra xung đột khi dữ liệu được chia sẻ giữa các khu vực pháp lý. Tuy nhiên, các nỗ lực đang được thực hiện để giải quyết vấn đề này ở một số khu vực.

Công nghệ mớivà cách tiếp cận mới về chính phủ số

Các chính phủ đang nỗ lực giải quyết những thực tế xung quanh sự phát triển và tích hợp công nghệ số (chẳng hạn như khả năng ĐTĐM và các vấn đề bảo mật), nhưng điều quan trọng không kém là chú ý đến các giải pháp công nghệ sáng tạo nhằm cải thiện chức năng hệ thống và trải nghiệm người dùng.

Các chính phủ nên áp dụng các hệ thống thu thập dữ liệu được hỗ trợ bởi AI và các mô hình mô phỏng động cho phép chính phủ tìm ra cách tốt nhất để thu hút người dùng, đáp ứng nhu cầu của họ và đánh giá tác động của các dịch vụ số.

Đồng thời nên phát triển các phương pháp mới để khai thác các công cụ mô hình hóa chính sách theo hướng dữ liệu, sử dụng tư duy hệ thống và tầm nhìn xa cũng như các sáng kiến thí điểm và các cơ chế thử nghiệm (sandbox) để thiết kế và xác nhận các khuôn khổ khái niệm cơ bản đằng sau các giải pháp mới này.

ĐTĐM cho thấy một sự đổi mới, nó mang lại không gian cho sự phát triển kỹ thuật số gần như vô hạn, nhưng có một số công nghệ và cách tiếp cận đang phát triển cần được các Chính phủ nắm bắt thêm để đưa khu vực công vào thế kỷ XXI.

Có ba lựa chọn mà chính phủ có thể xem xét là chính phủ nhận thức (cognitive government), chính phủ linh hoạt và thích ứng (agile and adaptive government) và chính phủ liền mạch (seamless government)./.

Bài liên quan
  • AI, chuyển đổi số xoay chuyển lĩnh vực bán lẻ, người tiêu dùng
    Sự phát triển của AI, cùng với làn sóng chuyển đổi số (CĐS), đang cách mạng hóa trải nghiệm mua sắm tại Việt Nam. Từ cá nhân hóa dịch vụ đến tối ưu hóa chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp (DN) bán lẻ phải nhanh chóng thích nghi để đáp ứng kỳ vọng của người tiêu dùng.
Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Cấp thiết CĐS khu vực công hướng tới chính phủ số
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO