VỚI MỤC TIÊU XÂY DỰNG THÀNH MỘT TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG (ICT), HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG HƠN 60 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH, LÀ ĐƠN VỊ ĐẦU NGÀNH VỀ ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (NCKH), ĐÃ VÀ ĐANG ĐẦU TƯ NHIỀU CÔNG SỨC TRONG VIỆC KIẾN TẠO NHỮNG NỀN TẢNG QUAN TRỌNG CHO CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU BÁM SÁT NHU CẦU XÃ HỘI, LẤY MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA NGÀNH LÀM NỀN TẢNG VÀ LÀ ĐỘNG LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN.
HÌNH THÀNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ HỌC VIỆN
Trường Bưu điện ra đời và trưởng thành cùng lịch sử đất nước (1953-1965)
Năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta đã giành được những thắng lợi rất quan trọng. Lúc này Ngành Bưu điện phải khẩn trương tăng cường đội ngũ cán bộ có kỹ thuật nghiệp vụ, phát triển mạng lưới thông tin đáp ứng yêu cầu tác chiến trên các chiến trường. Để giải quyết vấn đề cấp thiết đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông công chính và Bộ Giáo dục đã ra nghị định về việc Quyết định thành lập Trường Bưu điện-Vô tuyến điện.
Lịch sử nhà trường ghi sâu những hình ảnh năm tháng khởi đầu giữa núi rừng Việt Bắc, trong bộn bề gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, thày và trò nhà trường vẫn tràn đầy lạc quan cách mạng. Thiếu tài liệu, không tiện nghi, nhưng các thày vẫn cần mẫn say sưa lần từng trang sách cũ thời Pháp thuộc để soạn nên bài giảng, còn học sinh là những người mới chỉ đọc thông viết thạo, nhưng đã có nhiều thành tích trong kháng chiến. Họ đã ngày đêm miệt mài học tập tiếp thu kiến thức kỹ thuật thông tin phục vụ kháng chiến. Hòa bình lập lại, nhà trường trở về Thủ đô, cùng nhân dân miền Bắc, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục công tác đào tạo phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Nhà trường đã từng bước đưa công tác giảng dạy học tập vào nề nếp. Ngoài những khóa đào tạo sơ cấp, trung cấp, Nhà trường có đủ điều kiện để mở các lớp đại học về thông tin liên lạc đầu tiên. Trong giai đoạn này nhà trường đã đào tạo trên 3000 kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật và kỹ sư, phục vụ cho Ngành và đất nước.
Xây dựng các cơ sở đào tạo Đại học và các Viện nghiên cứu đầu ngành (1966-1996)
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ III của Đảng: “Giáo dục Đào tạo và KHKT là then chốt”, Hội đồng Chính phủ thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện (1966) và nâng cấp Trường Bưu điện - Vô tuyến điện thành Trường Đại học Kỹ thuật Thông tin liên lạc (1969).
Từ năm 1966 đến 1975 hai đơn vị đã không ngừng vươn lên, trở thành những đơn vị đầu Ngành trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học, đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên 2.000 kỹ sư đã tốt nghiệp, hàng trăm giảng viên, nghiên cứu viên, sinh viên nhà trường đã lên đường ra tiền tuyến, nhiều người đã dũng cảm hy sinh trên chiến trường. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã được áp dụng trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Miền Bắc và phục vụ tiền tuyến lớn ở Miền Nam.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, Tổ quốc hoàn toàn thống nhất, Ngành Bưu điện cùng cả nước bước vào công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển đất nước. Tổng cục Bưu điện đã thành lập Viện Kinh tế Bưu điện; đồng thời trên cơ sở tiếp quản Trường Bưu điện Quốc gia (chế độ cũ) Tổng cục Bưu điện thành lập Trường Bưu điện Sài Gòn, hình thành hệ thống đào tạo, nghiên cứu chuyên ngành thống nhất trong cả nước.
Trong giai đoạn này nhà trường đã đào tạo trên 3000 kỹ sư, cán bộ quản lý các cấp của Ngành Bưu điện cũng như cung cấp nguồn cán bộ Kỹ thuật thông tin liên lạc cho an ninh, quốc phòng... Hơn 200 đề tài nghiên cứu khoa học được áp dụng thực tiễn, phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Thành lập Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông (1997 đến nay)
* Thành lập Học viện trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam
Bưu chính Viễn thông (BCVT) và Công nghệ thông tin (CNTT) là ngành công nghệ cao và luôn thay đổi nhanh chóng, đồng thời là ngành chịu sức ép hội nhập Quốc tế, sức ép cạnh tranh rất cao. Do đó, ngay từ khi thực hiện chiến lược số hóa mạng lưới viễn thông vào đầu những năm 1990, yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành BCVT và CNTT là khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và chủ động làm chủ được công nghệ, đồng thời phải bắt kịp được với trình độ quản lý mạng lưới tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn kinh phí Nhà nước dành cho hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học (NCKH) ở Việt Nam nói chung và dành cho các ngành công nghệ cao, hội nhập sớm nói riêng còn khá hạn hẹp, các Viện nghiên cứu và các trường đại học hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao thiếu tính thực tiễn, không có điều kiện thực hành; tình trạng dạy chay, học chay, thiếu các phòng Lab nghiên cứu là khá phổ biến.
Năm 1996, Nghị quyết TW 2 khóa 8 đã cho phép thí điểm thành lập trường Đại học, Viện nghiên cứu trực thuộc doanh nghiệp mạnh của Nhà nước, thực hiện gắn kết giữa đào tạo, NCKH và Sản xuất kinh doanh (SXKD) qua đó sử dụng các nguồn lực và thực tiễn của doanh nghiệp cho đào tạo nhân lực và phát triển tiềm lực KHCN cho chính doanh nghiệp và cho đất nước. Trong bối cảnh đó, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông (Học viện) được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyêt định số 516/ TTg ngày 11/7/1997 trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị đào tạo - nghiên cứu trực thuộc Tổng công ty BCVT Việt Nam. Vì thế, tiền thân của Học viện là các đơn vị Nghiên cứu, Đào tạo có bề dày truyền thống trong lĩnh vực BCVT.
Sau 18 năm xây dựng và trưởng thành Học viện đã không ngừng phát triển và có thành tích to lớn đóng góp cho sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin. Từ một đơn vị hoàn toàn bao cấp, lĩnh vực, trình độ và quy mô đào tạo bé nhỏ, đến nay Học viện đã trở thành trường đại học đa ngành, tự chủ về kinh phí thường xuyên với quy mô đào tạo trên 18.000 sinh viên.
** Học viện, đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông.
Thực hiện quyết định 888/QĐ-TTg ngày 10/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tái cơ cấu Tập đoàn BCVT Việt Nam (VNPT), theo đó Học viện được điều chuyển từ VNPT về trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý. Học viện là đơn vị sự nghiệp công lập, tự chủ về tài chính. Đây có thể nói là cơ hội rất lớn để Học viện tiếp tục lớn mạnh. Mô hình này sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho sự ổn định, phát triển của Học viện nói riêng và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển nguồn nhân lực ngành thông tin và truyền thông, cho các doanh nghiệp và cho xã hội. Khi về Bộ Thông tin và Truyền thông, Học viện có nhiều cơ hội, khả năng thu hút các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, mang tính xã hội trong nước và quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó sẽ cung cấp được các sản phẩm nghiên cứu, đào tạo có chất lượng cho xã hội.
(còn nữa)
PGS.TS. Lê Hữu Lập
(TCTTTT Kỳ 1/8/2015)